CHƯƠNG 14
Mùa thu năm 1985 lặng lẽ đến, với những
cơn gió hiu hiu lúc xế chiều, với ánh nắng vàng mơ dịu nhẹ, bầu trời trong trẻo
mênh mông. Từng đàn chim di thê bay từ hướng đông bắc về nam, để rớt lại những
tiếng kêu líu ríu vọng dài trong gió. Và vào những chiều thu muộn, trên những
cánh trảng, chuồn chuồn bay từng đám rập rờn, điểm lên nền trời xanh lơ những
chấm vàng chao động.
Một buổi chiều tháng Mười, sau ngày Lý lên
đường đi phép hơn ba tháng, Huy ra thăm
me Sa Rinh. Hạn phép của Lý đã hết từ lâu, nhưng anh vẫn biệt tăm, và trong
quãng thời gian đó, không có bất cứ một tin tức thư từ gì của Lý gửi sang. Mợi
hay chắc lưỡi, lắc đầu rồi bất ngờ chửi đổng lên: “Mẹ nó! Có trốn không qua thì
cũng báo cho anh em biết chứ! Tao mà về được, nó biết tay tao!” Me Sa Rinh và
Sa Piên rất lo lắng hoang mang. Cô vào cứ mấy lần hỏi thăm tin tức Lý, dù cách
chừng một đôi tuần Huy lại ra nhà. Có lần, Sa Piên còn nhờ Huy viết thư cho Lý,
nhắc anh mau sớm trở qua. Huy viết lá thư
theo đúng những lời của Sa Piên nói, những lời ngây thơ mộc mạc buồn
cười, nhưng thể hiện một tình yêu sâu sắc và nỗi buồn nhớ mênh mông. Nhưng Huy
bắt đầu nghi ngờ việc Lý trở qua. Có đến
tám mươi phần trăm là anh ta đã đào ngũ hẳn rồi. Nhiều lúc Huy thầm tiếc phải
chi Lý đừng chuyển về tiểu đoàn ba, phải chi Sa Piên vẫn yêu thương Quân, cả
hai chắc chắn sẽ được hạnh phúc. Quân vẫn còn yêu Sa Piên lắm, Huy biết. Nhưng
làm sao được, trái tim cô, thân xác cô đã thuộc về Lý mãi mãi mất rồi. Lần me Sa Rinh trao chiếc vòng nhờ Huy trả
lại cho Quân, hai anh em đã trò chuyện với nhau rất lâu, từ chiều đến tận
khuya. Hôm đó, Quân buồn lắm, chuyện chiếc vòng gợi nhớ cho anh, gợi lại nỗi
đau mà anh đã cố tìm quên, cố vượt qua trong công việc bấy lâu nay. Nhưng hôm đó,
anh cũng nói rất nhiều về bản thân, về những suy tư, quan niệm, ý tưởng của
mình đối với cuộc đời cho Huy nghe.
Khi Huy vừa bước tới chân thang đã nghe
thấy tiếng quát tháo của búc Hô. Huy đứng ngập ngừng một lúc rồi bước lên nhà.
Búc Hô chỉ hơi gật đầu đáp lại câu chào của Huy, rồi ông lập tức bỏ đi, nét mặt
vừa đau đớn vừa phẫn nộ. Me Sa Rinh và Sa Piên ngồi co rúm ở một góc nhà. Sa
Piên gục đầu vào lòng me khóc nấc. Huy bối rối, không biết nên ra về hay ở lại.
Anh còn đứng lưỡng lự chưa biết phải làm sao thì me Sa Rinh bảo:
- Con lại đây. Me có chuyện này muốn nói
với con.
Huy bước lại, ngồi đối diện với me, nhìn
bà dò hỏi.
- Lý có viết thư cho mấy con chưa?
- Dạ không có me à. Không biết tại sao…
- Huy à, Sa Piên đã có thai mấy tháng rồi. Thằng Lý thì
bặt tăm tin tức… Me vừa nói cho búc Hô biết chuyện. Con thấy đó, ổng nổi khùng
lên, đòi đập chết Sa Piên… me biết làm sao đây, Huy ơi!
Huy ngồi chết trân, đầu óc hoang mang. Một
thanh niên còn chưa hết tính trẻ con như anh thì biết gì đâu với mấy chuyện quá
phức tạp thế này. Huy thầm trách Lý quá nhẫn tâm vô tình, anh nhìn Sa Piên
thương xót. Trông cô xanh xao gầy guộc đi nhiều, hai mắt quầng đen vì mất ngủ,
lo âu.
Me Sa Rinh nói tiếp, nghẹn lời, rưng rưng
nước mắt:
- Thanh niên trong phum chê bai nói xấu Sa
Piên. Nó bây giờ không dám bước đi đâu. Khổ cho mẹ con me quá, Huy ơi!
Sa Piên nhăn mặt:
- Me đừng nói nữa!
Huy nhìn ra khoảnh sân tràn ngập ánh nắng
quái chiều hôm. Cây chùm ruột mà me Sa Rinh có lần hái trái nấu canh chua thịt
gà cho anh và các bạn khẽ đung đưa trong gió, những cành lá vẫn xanh ngăn ngắt
vô tình. Đống un ở góc vườn tỏa lên một làn khói mong manh, mỏng như sương. Hai
con trâu nằm thảnh thơi nhai lại, thỉnh thoảng lại lười nhát vung đuôi xua ruồi
nhặng. Mấy con gà mái già, lông cánh xác xơ, đang hối hả tìm những míếng mồi
cuối cùng trong đống rác, bọn gà con vừa chạy quẩn bên chân mẹ, vừa kêu líu
nhíu như giục mẹ chúng mau đi tìm chỗ ngủ. Con gà trống hoa mơ đỏm dáng đã kịp
nhảy lên cành vú sữa thấp nhất, nơi nó vẫn đậu ngủ đêm. Nó nghiêng nghiêng đầu,
hếch một bên mắt nhìn xuống bầy đoàn thê tử bên dưới, khẽ lục cục trong cổ
họng. Chợt nó nhổm hai chân, hất chiếc mồng đỏ tía qua một bên, vươn cổ gáy lên
một cách hợm hĩnh vô duyên. Tất cả – ánh nắng vàng, cây cỏ trong vườn, bầy gà,
hai con trâu, những lượn khói mờ xanh – đều giống như bất cứ một buổi chiều
nào, nhưng trong không khí tịch mịch giờ đây, có một cái gì đó thật nặng nề,
làm tim Huy thắt lại, bồn chồn.
Huy
chợt nhớ có một lần anh nghe hai chị em Khla và Cà Mum trò chuyện với
nhau, đứa chị chừng mười ba, nhỏ em chừng chín mười tuổi, chúng hỏi đáp nhau
những câu thật ngộ nghĩnh ngây thơ. Lúc đó hai chị em đang sàng gạo, còn Huy
đứng giã gạo giúp chúng kế bên. Đang nghĩ vẩn vơ gì đó, anh chợt chú ý khi nghe
Khla hỏi:
- Boòng Cà Mum, boòng có thích sau này
mình sẽ có thể đi xa, thật xa, đến thật nhiều nơi không?
- Để làm chi? – Nhỏ chị hỏi lại.
- Để trông thấy tất cả mọi thứ, để hiểu
biết mọi thứ.
- Chà, thích đó, nhưng làm sao được, muốn
đi xa như vậy phải thật giàu có, Khla ạ.
- Em ước gì được đi. Em chán ngày nào cũng
cứ như ngày nào, nhìn ra xa trước mặt chỉ có núi Svay già cỗi và quen thuộc.
Chả biết ở xa kia có núi nào khác to hơn núi Svay không nhỉ?… À này, boòng ơi,
boòng có biết thứ gì to nhất trên đời này không hả boòng?
- Trái đất to nhất chứ còn gì. Bao nhiêu
là người, là heo chó trâu bò, sông núi, đều nằm trên trái đất.
- Không phải đâu, em nghe lục tà [1]
Sa Gong bảo tình yêu là to lớn nhất đó.
- Sao thế được, tình yêu nằm trong cái
bụng, trong cái đầu của mình mà, sao to nhất được?
- Lục tà bảo tất cả sông dài núi rộng đều
đo được đó, boòng ạ. Lục tà bảo ngay như trái đất là to, nhưng người ta cũng có
thể đo được, chứ tình yêu mênh mông lắm, không ai đo lường được. Không đo được
tất là phải to ghê lắm.
- Sao thế được! To thế thì mày đến vỡ
bụng, vỡ đầu ra khi cái tình yêu nó chui vào bụng, vào đầu mày hay sao! Vớ vẩn!
- Ừ nhỉ!
Chả hiểu lục tà nói vậy là sao. Nhưng lục tà đâu có nói dối, hả boòng?
- Tao không biết đâu. Mày đi mà hỏi lục
tà.
Nhỏ Khla chợt
quay sang Huy, hỏi anh:
- Boòng Huy, boòng thấy lục tà nói đúng không? Lục tà đâu nói dối,
phải không?
Huy ngưng
giã, chống cằm lên cán chiếc chày. Anh gãi gãi đầu, rồi nhe răng cười với Khla:
- Ừ, ông ấy
không nói dối đâu. Nhưng khó giải thích lắm. Em chỉ cần biết tình yêu to hơn
trái đất là đúng, được chưa nào?
Lúc đó, anh cũng chỉ trả lời qua quýt vậy
thôi. Nhưng giờ đây, Huy chợt cảm nhận trong câu chuyện vu vơ của hai đứa bé có
một cái gì đó, như là những chân lý giản
đơn. Và câu đáp của lục tà Sa Gong nữa. Có phải con người bao giờ cũng khao
khát những chuyến đi xa, khao khát được biết những điều mới lạ, có phải thật sự
tình yêu to hơn tất cả?
****
Không đầy nửa giờ từ lúc Huy từ nhà me Sa
Rinh về trại, Quân cho tập trung toàn trung đội. Anh cũng vừa lên tiểu đoàn bộ
hội ý đột xuất trở về. Anh thông báo
ngắn gọn:
- Phái nấu cơm, chuẩn bị cơm vắt. Tất cả
chuẩn bị năm ngày gạo, đạn dược đủ cơ số. Đúng 8 giờ tối tiểu đoàn xuất kích.
Trinh sát trung đoàn đi bám phát hiện một lực lượng rất đông, đang trên đường
từ biên giới ngược về nội địa theo hướng đông nam. Chúng ta sẽ tập kết ở khu vực suối Cro-lanh, cách đây hơn ba mươi
cây số. Hợp đồng tác chiến như sau: Hai đại đội vượt suối sang bờ bên kia, cắt
ngang hướng đông đông bắc, chặn đường chạy của địch về khu rừng phía đông. Khi
địch bị khối trung đoàn đuổi từ trên chạy xuống, C11 sẽ đánh chéo hông, C12 cắt
bọc vu hồi. Trung đội ta sẽ phối thuộc C13 đón lõng cắt đường địch băng qua
suối. Tôi phân công Già Hương và Bùi ở nhà giữ cứ, chỉ để ở nhà một khẩu AK,
tất cả vũ khí trang bị còn lại mang theo tác chiến. Phân công tác chiến như cũ,
phương án tác chiến loại A.
Mọi người nhanh chóng tản ra làm công tác
chuẩn bị. Sau đó, họ ngồi quây lại với nhau, vừa ăn cơm chiều, vừa tán chuyện
ồn ào, phấn chấn vì sắp có một trận đánh ngon lành.
Đó là một đêm hanh nóng. Mồ hôi ướt đẫm áo
những người lính ngay trong mười phút đầu sau khi xuất phát. Trăng non đã xuất
hiện ở lưng trời, gieo một thứ ánh sáng lờ mờ, đục như sữa, xuống cánh trảng
dọc bờ hồ Tà Piên Thmo, nơi họ đi qua. Ra đến cứ Tiểu đoàn một, Huy thấy một
đội hình dài dằng dặc cũng đang di chuyển về hướng bắc, chéo một góc 30 độ so
với hướng của Tiểu đoàn ba. Vậy là cả trung đoàn đều xuất kích. Lâu lắm rồi mới
có một trận tập trung lực lượng lớn thế này, Huy thầm nghĩ.
Khoảng ba giờ sáng, tiểu đoàn đến điểm tập
kết. Quyền tiểu đoàn trưởng Bảo ra lệnh các đại đội vượt suối triển khai đội
hình chiến đấu, khối hoả lực cối, ĐKZ, thông tin vận tải nằm lại bên này bờ
suối yểm trợ.
Cro-lanh là một con suối lớn. Lòng suối ở
khúc hẹp nhất cũng rộng hơn hai mươi mét. Và tất nhiên, nó cũng là một con suối
sâu. Đã có một người lính tiểu đoàn một chết đuối khi hành quân vượt suối vào
mùa nước lớn tháng Bảy trước đó. Dọc hai bên bờ suối, rải rác những lùm cây gai
móc ó (dương mai) dày đặc, loại dây leo bám thân mềm nhưng rất hiểm độc này là
thứ những người lính ghét cay ghét đắng,
và ngán nhất. Gặp lũ dây này trên đường hành quân, chỉ có cách né chúng, vòng
đường khác mà đi, dây vào chúng chỉ tổ mất thì giờ, và mất thêm một ít máu chứ
chả lợi lộc gì. Dưới ánh trăng, những bụi gai khổng lồ, đen sẫm đứng lù lù như
đe dọa.
Các đại đội lần lượt vượt suối,tản ra theo
phương án. Đại đội trưởng Thu bố trí trung đội 12 ly nằm chệch lên trên, giữa
trung đội tám và trung đội chín ở cánh trái và trung đội bảy ở cánh phải, rải
đều thành một hình cánh cung dọc theo một đoạn suối uốn lượn hình chữ Z.
Hai bên bờ suối, chạy xéo về hướng đông
nam là một trảng cỏ thưa thớt trải dài
hàng chục cây số đến tận chân trời, lác
đác mới có những cụm cây, bụi nhỏ thấp. Thẳng góc với bờ suối, hướng bắc, cách
hơn ba trăm mét là một quãng rừng thưa. Sau khi bố trí xong đội hình trung đội,
Quân nhìn một vòng bao quát địa hình, anh đi qua chỗ Thu.
-
Ông Thu nè, bờ suối này quá thấp và phẳng, không có địa vật che đỡ, ông nhắc
anh em đào công sự cẩn thận, nếu không địch tràn xuống rất dễ thương vong.
-
Nhằm nhò gì, ông đừng lo. Mình di chuyển chứ có nằm im một chỗ đâu mà đào công
sự, để anh em nghỉ ngơi để lấy sức đánh nhau tốt hơn.
- Không được đâu ông Thu. Di chuyển là khi tấn công, còn đây ta
đón lõng, chủ yếu là ngăn không địch vượt qua suối. Trống trải như vầy di
chuyển để phơi mình cho địch hay sao, ông nên suy nghĩ lại. Thà mệt thêm chút
ít còn hơn làm đổ máu anh em một cách vô ích – Quân cố thuyết phục Thu.
Thu nhếch mép cười, lắc đầu không đáp. Anh bắt đầu hơi bực bội,
nhưng dằn lòng lại vì cũng có phần nể Quân. Thu nghĩ thầm: "Hừ, lại còn
dạy đời nhau. Thằng Thu này đánh nhau hàng trăm trận, từ thằng binh nhất bò lên
chức đại đội trưởng qua chiến đấu, chứ đâu phải thứ sĩ quan trường lớp hôi sữa
mẹ!" Quân cảm thấy Thu có vẻ tự ái nên cũng không nói gì thêm. Anh buồn bã
quay lại lệnh cho anh em trung đội đào công sự.
Đất dọc theo bờ suối toàn một loại gan
trâu, rắn như đá. Lưỡi cuốc bập mạnh vào cũng chỉ sới lên được một vạt mỏng
những lớp đất rời rạc lục cục lòn hòn. Quân cùng đào với anh em. Khi họ ngưng
tay, trời bắt đầu hửng sáng.
Khoảng nửa tiếng sau, khi mọi người đang
ngấu nghiến nhai nắm cơm vắt chuẩn bị từ chiều hôm trước, tiếng súng bắt đầu rộ
lên ở hướng Bắc, cách chừng bảy tám cây số. Đạn B và cối pháo nổ dồn dập một
lúc, rồi im lặng trở lại. Thêm khoảng nửa tiếng nữa, địch bắt đầu xuất hiện ở
bìa cánh rừng thưa.
Chưa bao giờ, ngay cả lúc đánh các căn cứ
lớn ở vùng biên giới, họ lại trông thấy một lúc nhiều quân địch như vậy. Hàng
ngàn tay súng, lố nhố di động sau những thân cây, bụi nhỏ như một bầy kiến đông
lúc nhúc, đặc cả một dải rừng.
Mọi người không cần chờ lệnh. Địch sờ sờ
trước mắt, họ nổ súng ngay.
Khói đạn mù mịt chẳng bao lâu đã tỏa ra
phủ một vùng rộng quanh chiến địa. Địch
bị thương vong nhiều hơn, nhưng chúng quá đông và cố mở đường chạy về đông để
thoát gọng kìm của trung đoàn ở phía trên đang dồn xuống, nên lớp này vừa gục
xuống, những xác chết đã trở thành vật
che chắn cho lớp sau bò lên. Quãng cách giữa hai bên ngắn dần. Phía đại đội 13,
đã có một số chết và bị thương. Cối, ĐKZ của Tiểu đoàn từ bên kia bờ suối rót
qua đều huốt ra sau lưng địch, hoặc nếu hạ tầm thì lại vướng vào những bụi cây
ven bờ suối.
Trận đánh kéo dài được hơn một tiếng, thế
yếu ngày càng nghiêng về phía đơn vị lính tình nguyện Việt Nam. Đội hình
của họ bị chẻ nhỏ ra, rồi lần lượt bị đánh tan tác.
Lúc này mạnh ai nấy bắn, chẳng còn hàng
lối trật tự gì. Khẩu 12 ly mỗi lần khạc lửa lại quét ngã một lớp địch đang cố
xông lên. Lúc đầu nổ súng, Thuận bắn. Nhưng mảnh một quả B nổ gần găm vào vai
làm anh ngã qụy. Quân vội giao khẩu AK cho Huy, đỡ Thuận ra phía sau, rồi quay
lại khẩu súng tiếp tục bắn. Huy nằm bên trái khẩu súng, giương AK vào những
bóng áo xanh mờ mờ sau màn khói bắn từng loạt ngắn. Ở hai cánh của khẩu trọng
liên, mấy khẩu AK còn lại của trung đội cũng đều phát hỏa. Chẳng bao lâu, địch
đã phát hiện ra tọa độ của khẩu đội. Chúng tập trung mấy khẩu B vào một mục
tiêu, quyết diệt cho bằng được khẩu hỏa lực lợi hại này. Những quả B nổ tung
xung quanh khẩu súng. Tai Huy ù lên, đau nhói và gần như điếc đặc vì những
tràng 12 ly và tiếng đạn B nổ gần. May
là họ đã có công sự nên cũng đỡ hơn một tí. Nắng bắt đầu gay gắt, phóng từng
luồng ánh sáng nóng chói chang xuống đầu những người lính, nhưng không ai để ý.
Trong đầu họ lúc này, máu dồn lên còn nóng gấp mấy lần ánh nắng. Bụi đất bay
lên mù mịt làm những người lính ho sặc sụa, cổ họng họ khô se, đắng ngắt và
nghẹn lại.
Huy lia súng vào một tên địch cách anh
khoảng trăm mét, khi hắn vừa nhổm lên định phát hỏa một quả B, mấy phát đạn
không trúng đích, nhưng cũng buộc tên địch thụp đầu ngay xuống nằm im thin
thít. Chợt anh nghe loáng thoáng như có tiếng ai quát tháo. Anh quay sang Quân.
Hình như Quân đang hét to gì đó, nhưng Huy không nghe rõ. Rồi anh thấy Quân bò
về phía sau, nơi các số đạn đang nằm nấp. Huy chợt hiểu ra là mấy thùng đạn ở
trên đã hết. Quân phải bò xuống để lấy mấy dây đạn phía sau. Huy quay về trước
tiếp tục nổ súng. Anh cũng đã bắn hết bốn băng đạn lắp sẵn và gần nửa ruột
tượng đạn rời, dù rất tiết kiệm. Vừa bắn, Huy vừa tranh thủ những lúc địch thụp
xuống để lắp đạn rời tiếp vào băng. Lúc này, bọn địch thừa cơ khẩu trọng liên
im tiếng, vừa bắn xối xả uy hiếp, vừa hè nhau xông lên áp sát. Bên tay trái
Huy, một tên, bên phải Huy hai ba tên khác. Huy rút quả lựu đạn cầu ở thắt lưng
ra, ghé răng cắn vào chốt và chờ đợi. Mấy tên phía bên phải vừa nhoài lên đúng
tầm lựu đạn, Huy bung chốt, ngưng khoảng hai giây rồi ném lên. Quả lựu đạn nổ
hất ngược bọn địch về. Huy lại quay sang bắn kềm chân bọn phiá kia. Thoáng
chốc, Quân bò lên tới. Quanh vai anh quấn một dây băng, hai tay kéo thêm hai
thùng nữa. Vậy là tất cả số đạn còn lại trong cơ số đã mang lên – Huy thầm
nghĩ. Anh không dám nghĩ tiếp về hậu quả của việc này. Đạn địch vẫn cào xới,
đào tung mặt đất xung quanh họ. Những bụi cỏ nhỏ, thân cây đều đã bị đạn cắt
tiện hoặc băm nát hết. Quân vừa lắp xong dây đạn mới vào bệ tiếp đạn, anh
nghiêng người lên đạn. Thân hình Quân chợt nẩy nhẹ lên, rồi anh gục xuống. Bên
trán phía tay phải của Quân, một dòng máu vọt ra. Còn sau ót anh, một vùng máu
và óc lầy nhầy, nát bấy. Thuận đang nằm ở phía sau cố gượng ngồi dậy, rồi quên
cả vết thương ở vai, anh gào lên, nhào tới, ôm chầm lấy Quân. Ngay sau đó, anh
vội buông Quân ra, chụp tay kéo lên đạn, nước mắt ràn rụa. Khẩu 12 ly rung lên,
nòng súng xòe ra những chùm hoa lửa, và nóng đỏ lên, lớp bao bố ràng sau đầu
ruồi bắt đầu bốc khói nghi ngút. Trong một khoảnh khắc, Huy nhìn thấy tất cả
các cảnh tượng ấy. Chính anh khi đó đã gào lên, đã khóc, hay đã làm gì khác?
Những hành động sau đó của Huy vượt khỏi tầm kiểm soát của trí não anh. Sau này
khi nhớ lại, Huy cũng chỉ biết lúc ấy mình vẫn tiếp tục chiến đấu. Còn chiến
đấu ra sao, trận chiến còn bao lâu nữa kết thúc, và họ đã trở về Cứ như thế nào, những điều sau đó như một lớp
sương mù mờ mịt trong ý thức của Huy.
Nói về tình cảnh của đại đội 13 khi ấy,
mọi chuyện cũng bi đát không kém. Hàng ngũ của đại đội đã rối bời. B trưởng B7
và B8 đã chết, gần hai phần ba quân số
đại đội bị thương hoặc hy sinh. Những người còn sống sót cố cầm cự một cách yếu
ớt, và đã dạt xuống phía sau khẩu đội. Địch tràn lên từ khắp các hướng, đằng
trước, bên phải, bên trái, đâu đâu cũng thấy lổm ngổm những tên địch đang xông tới.
Ở một chỗ cách khẩu đội chừng trăm mét,
Đại đội trưởng Thu vai trái loang đỏ máu, đang ôm khẩu AK bắn cầm chừng. Nằm kế
bên anh là một chiến sĩ thông tin, và Duy, liên lạc đại đội. Cả ba đều bị tách
khỏi đội hình, bấy giờ chỉ còn chiến đấu một cách vô vọng như mấy con giun lọt
vào một ổ kiến lửa hung tàn. Thu vừa bắn, vừa hét thẳng vào chiếc máy P.R.C.25,
không còn để ý đến mật khẩu, ám hiệu gì nữa: “Mười ba bị bao vây, mười ba bị
bao vây, yêu cầu chi viện khẩn!…” Câu hét của anh bị dập tắt nửa chừng. Một quả
B nổ tung ngay trước mặt Thu. Sau khi lớp bụi đất và khói tan đi, trên mặt đất
chỉ còn lại ba xác người xạm đen và nát bấy.
Khối tiểu đoàn bộ lúc bấy giờ đã rút về
phía sau một quãng, đang cố bắn cấp tập để giải vây, nhưng cũng chỉ ép địch
được địch dạt qua một cánh, xuống khu bờ suối phía dưới trận địa. Địch đã vượt
qua suối được một phần ba. Số còn lại bên này bờ suối cũng không còn hăng máu
đánh nhau mấy vì đã có đường thoát, chúng tranh nhau vượt suối. Tiếng súng ngớt
đi, rồi một lúc sau chỉ còn tiếng cối toong đuổi theo lưng địch của tiểu đoàn.
Lực lượng của trung đoàn xuống tới trận
địa chậm hơn sau đó khoảng một giờ. Họ không ngờ địch lại tập trung lại một
điểm ở đó, lại càng không ngờ lực lượng đón lõng vì quá mỏng so với địch đã gần xoá sổ sạch trơn.
Đại đội 11 và 12 cũng đụng mấy nhóm nhỏ của địch dạt về hướng họ, nên
đã bị cầm chân tại chỗ, không thể nào
tiếp ứng.
Chiều hôm ấy, vào lúc những tia nắng cuối
cùng sắp tắt, một vài người dân ở mấy phum lân cận còn nán lại trên đồng đã
trông thấy một đoàn xe bò mười mấy chiếc đi ngang qua chỗ họ, kéo theo một lớp
bụi xám mờ tỏa lên nền trời tím đỏ, trên mỗi xe có hai hoặc ba xác chết bộ đội
Việt Nam, bên trên phủ một tấm nylon màu xanh nhạt. Chẳng bao lâu, dân trong vùng
đã biết rằng có rất nhiều lính Việt Nam chết trong một trận đánh vào
buổi sáng mùa thu ấy. Họ kể chuyền cho nhau nghe, mỗi người lại thêu dệt thêm
thắt những chi tiết về tính nết, vẻ mặt người này, chuyện tình người khác. Trận
đánh trở thành một huyền thoại bi thương, và mỗi người dân đều tưởng chừng như
mình có quen biết, thân tình với một ai đó trong số những người lính đã hy
sinh.
Trong trận đánh ấy, có ba mươi chín người,
kể cả sĩ quan, hạ sĩ quan và chiến sĩ, đã trở thành liệt sĩ. Một trận đánh mang
lại tổn thất nặng nề, cả về con người và tinh thần chiến đấu cho toàn thể trung
đoàn. Rất lâu sau đó, người dân quanh vùng vẫn nhắc lại cảnh tượng ngày hôm ấy,
như là một biến cố không bao giờ phai
nhòa trong ký ức họ - ký ức của những cuộc đời bình lặng, với những niềm vui
nỗi buồn rất bình thường, và hầu như không có gì đáng nhớ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét