CHƯƠNG 7
Cánh rừng lại xôn xao không khí của những
ngày vào chiến dịch. Các cánh quân của các trung đoàn, tiểu đoàn khác nhau lũ
lượt di chuyển dọc ngang. Từng đoàn quân, quần áo bạc màu nắng gió, ba lô, súng
ống, gạo nước trĩu nặng trên thân bước những bước dài mạnh mẽ. Tất cả, từ người
lính cũ đã mấy năm xa quê đến những người lính mới sang hồi cuối năm ngoái, đều
không còn gì khác biệt nhau. Ai ai cũng đã quen với những chặng hành quân hàng
chục cây số dưới ánh nắng chang chang, trong lớp bụi mù mịt bay lên giữa ban
ngày, hay dưới ánh sao lấp lánh mùa khô miền xích đạo ban đêm; quen với mùi mồ
hôi của chiếc áo lính nhiều ngày không giặt, với sự thiếu ngủ những đêm trắng
hành quân; quen với sự căng thẳng trong giờ phút ém quân chờ lệnh nổ súng.
Từng đoàn quân, như những con rùa dưới cái
mai nặng nề bò từng bước chậm rãi mà chắc chắn về mục tiêu phía trước. Người
thì ngược về Tây, tiếp tục cho trận đánh. Người thì xuôi lên Bắc thế chân đóng
chốt, bảo vệ cho dân công lên xây dựng tuyến phòng thủ K.5 dọc theo hành lang
biên giới.
Trên đường đi, những người lính thuộc các
đơn vị khác nhau cứ ngong ngóng mong gặp lại một đồng hương nào đó thuộc đơn vị
bạn. Tiếng chào hỏi, cười đùa trêu ghẹo nhau giữa những người lính vang vang
suốt một chặng đường dài, cuốn theo cơn gió cuối xuân hun hút luồn vào cánh
rừng sâu, phá vỡ sự tĩnh lặng hàng trăm nghìn năm nay của khu rừng trầm mặc:
- Vân ơi, có viết thư cho nhỏ Thùy em gái
tao nói tao gửi lời thăm nó với nhé. Dạo này tao lười viết quá. Đi may mắn nghe
Vân.
- Thắng ơi! Đánh cho hăng vào! Kiếm nhiều
nhiều “đồ cổ”[1] về
ghé tao nhậu một chặp tưng bừng nghe!
- Đồng hương ơi, phen này lên đó nằm chốt
một năm tội nhỉ! Có gặp nàng khỉ cái nào đèm đẹp thì cũng ráng giữ thủy chung
với bà vợ già ở quê nhà nghe!
- Anh em đi mạnh khỏe, chiến thắng vẻ vang
nghe!
- Anh em ở lại cũng mạnh khỏe, hoàn thành
nhiệm vụ nghe!
Huy dáo dác nhìn ngược ngó xuôi tìm kiếm Xuân, thằng bạn cùng huấn
luyện ở H15. Trong đoàn sang đây, chỉ có Huy và Xuân là về sư đoàn này. Không
biết là Xuân ở trung đoàn, tiểu đoàn nào, Huy cứ vừa dõi mắt tìm, vừa hét lên
hú họa: “Xuân ơi! Huy đây! Xuân H15 ơi!
Huy đây! Mày đâu rồi? ”
Từ phía đầu đội hình của đoàn quân đang đi
ngược lên, bỗng có một người lính chạy xuống quát to:
- Ai là Huy H15?
- Tôi, tôi đây! – Huy cuống quýt.
Người lính bước tới gần bên Huy, mỉm cười:
- Xuân không có ở đây, nó đi qua chỗ E bộ
liên hệ công tác. Tui có nghe nó kể về ông.
Huy mừng rỡ, hỏi rối rít:
- Ủa, nó làm gì mà lên E? Anh ở đơn vị
nào? Nó có khỏe không vậy?
Người lính bật cười, vui vẻ nói:
- Xuân đã lên tiểu đoàn làm văn thư. Tụi
tui ở D7. Sắp tới nằm chốt ở đây, chắc còn lâu mới về hậu cứ. Yên chí đi, Xuân
vẫn khỏe khoắn, vui vẻ. Thôi, tui phải đi đây. Tui sẽ nói nó có gặp ông. Mạnh
giỏi nghe đồng hương – Nói chưa dứt câu, anh ta xoay lưng chạy vù đi.
- Mạnh giỏi nghe đồng hương! – Huy hét vói
theo. Anh tự trách mình quên không hỏi anh ta tên gì.
Buổi trưa, đơn vị dừng chân nghỉ giải lao bên một tiểu đoàn tăng.
Lác đác trên trảng cỏ khô xơ xác là những khóm cây rừng, những chiếc tăng nằm
dưới bóng những khóm cây đó. Từng nhóm năm người lính một đang quây quần bên
cạnh chiếc tăng ăn cơm, trông thấy tụi Huy đi qua, cất tiếng chào mời vui vẻ,
thân thiện:
- Xơi cơm mấy anh ơi.
- Ăn cơm đồng hương ơi.
Dù biết là họ chỉ mời cho có, Huy cũng
thấy vui vui, xúc động. Tình cảm giữa các đơn vị, các binh chủng khác nhau
trong những ngày này thật sự gắn bó, thể hiện ở từng điều nhỏ nhoi như vậy. Anh
gật đầu cám ơn, rồi hỏi:
- Tụi tôi đang đi tìm nước về nấu cơm. Khu này có hố
nước nào không mấy anh?
- Có, có người anh em ạ! Cứ đi dọc theo đường mòn này
vài trăm mét nữa, có một vũng nước lớn lắm.
Theo lời những người lính tăng, đi thêm
khoảng năm trăm mét, băng vào một cụm cây cao rậm rạp, Huy, Thuận gặp vũng
nước. Đó là một khoảng đất trũng hình bầu dục, đường kính chừng bốn mét, nằm
giữa một bãi cỏ. Nó có nước là nhờ đợt mưa dầm hồi cuối tháng trước, nhưng đến
nay cũng đã vơi cạn đi nhiều. Mặt nước tù đọng nổi lều bều những lá khô rơi,
những váng rêu xanh mốc. Rải rác bên bờ vũng có những chỗ cỏ bị đè nát, lỗ chỗ
dấu chân thú rừng trên mặt bùn non. Màu nước vàng đục, lợn cợn trông thật tởm.
Nhưng có nước đã là quí lắm rồi. Huy mở bung tấm nylon ra, gấp làm hai, rồi móc
túi quần lấy hai sợi dây võng cột gút hai đầu tấm nylon vào hai đầu cành cây đã
chặt sẵn từ trước, tạo thành một cái võng chứa nước dã chiến. Xong xuôi, hai người
gỡ nón cối ra bước xuống ven vũng, múc nước đổ đầy chiếc cáng. Dù có tải theo
mấy can rùa nước dự trữ, Quân vẫn cẩn thận bảo anh em cố đi tìm nguồn nước, để
dành lại số nước có sẵn phòng khi bất trắc.
Hai người về tới chỗ trung đội. Phái đã
nổi lửa từ lúc nào. Anh nhanh nhẹn trút gạo vào nồi, đổ nước vào rồi bắc lên
chiếc bếp dã chiến đào âm vào nền đất, bỏ qua công đoạn vo gạo. “Ăn thế càng thêm bổ!” Phái biện bạch dù chả ai
có ý kiến gì.
Cơm nước xong, mỗi người tìm chỗ mắc võng,
hay trải chiếu lên trên lớp cỏ khô để nghỉ lưng. Huy đang dáo dác tìm nơi cột
võng thì Quân gọi:
- Lại đây Huy, đây có chỗ giăng nè.
Quân mắc võng giữa hai cây rừng cỡ bắp
chân. Bên tay phải anh có một nhánh lớn xòa xuống thấp từ một cây to gần đó.
Huy cột một đầu võng vào nhánh cây đó, đầu kia vào thân cây đầu võng của Quân.
Rồi anh ngồi lên võng, ngả lưng ra khoan khoái.
Huy nhắm mắt lại dỗ giấc, anh cũng đã mệt
nhoài sau chặng hành quân. Nhưng rồi anh thấy đầu mình tỉnh như sáo, không sao
ngủ được, như vừa uống xong một ly cà phê thật đậm. Anh nhổm lưng ngó qua Quân.
Quân cũng không ngủ, anh vòng hai tay ra sau ót, mở mắt nhìn lên vòm lá trên
đầu.
Huy ngần ngừ một lúc, rồi nói:
- Thương thằng Trung quá, anh Quân! Không
biết giờ nó ra sao!
Quân thở dài:
- Cầu mong cho nó hết bệnh. Nó là một
người tốt... và hiếm có...
Huy ngạc nhiên. Anh không hiểu Quân muốn
nói gì. Huy im lặng ngẫm nghĩ một lúc rồi buột miệng hỏi:
- Hiếm có là sao hả anh?
- Thật ra, điều này anh khó mà giải thích.
Với lại, nó chỉ là cách nghĩ của anh
thôi, Huy à. Huy biết không, thường thì mọi người coi những người bị lên cơn
điên khùng sau một cú sốc, một thương tổn tâm lý là những người yếu đuối, đáng
thương. Người ta thương hại, và người ta cũng coi thường những người này. Thật
ra, những người điên này cao quí, đáng trọng hơn nhiều so với vô khối loại
người. Họ trung thành với điều họ coi là lẽ phải, là chân lý, và khi điều này
bị xúc phạm, họ không chịu đựng được. Họ là những người có nhiều tính nhân bản
hơn người khác.
Huy ngơ ngác nghe Quân nói. Những câu giải
thích của Quân còn khó hiểu hơn cả nhận định của anh. Tuy vậy, những lời trầm
buồn của Quân in sâu vào trí nhớ Huy. Anh nhớ hầu như đúng từng câu, từng chữ.
“Rồi sẽ có ngày mình hiểu!” Huy tự
hứa với mình. Anh chợt nghĩ tới một điều khác.
- Em có nghe Ụ Mối kể về anh. Anh không muốn về nước
sao anh Quân?
- Muốn chứ. Anh cũng nhớ thành phố lắm. Nhưng anh
không còn ai, không còn nơi nào để coi là gia đình, là mái ấm của mình nữa. Anh
cũng không thể xa anh em, đồng đội. Trung đội bây giờ là nhà của anh đó
Huy.
Quân chợt mỉm cười. Anh nhìn Huy với đôi
mắt sáng. Không thể gọi Quân là một người đẹp trai. Dáng anh cao gầy, lưng hơi
khòm khòm. Nét mặt anh là nét mặt của một người bình thường, không xấu cũng không
đẹp, và không có gì đặc biệt. Một gương mặt mà người ta có thể nhìn lướt qua
rồi sau đó sẽ quên khuấy đi ngay. Tuy nhiên, Quân có một đôi mắt khác thường.
Mắt anh tỏa một ánh sáng dịu dàng, kỳ diệu. Ánh sáng đó làm cho bất cứ người
nào, khi nhìn vào đôi mắt của Quân, cũng sẽ có cảm giác mình như tốt hẳn lên,
tự tin hẳn lên. Và những khi Quân im lặng, nét mặt anh có một sự bình thản lạ
thường, bình thản nhưng không gây cảm giác lạnh lùng, xa cách. Ở Quân ánh lên
một vẻ đẹp bên trong khó diễn tả thành lời. Ngay từ hôm gặp Quân lần đầu, Huy
đã không cưỡng nổi một niềm tin cậy và yêu mến tự nhiên đối với anh. Quân nói:
- Hôm trước, lúc em ra hồ tải nước. Ụ Mối
nó lục ba lô em lấy cuốn sổ ra đọc um lên. Em cũng lãng mạn lắm nghe Huy! Thơ
em có sự rung cảm, có sức mạnh nội tại đó, nhưng còn dàn trải lắm. Thơ em là
lời độc thoại với chính mình, nó không phải là loại thơ dành cho người thứ hai
nào khác ngoài em. Anh thấy qua những bài thơ và đoạn nhật ký đó, em đa cảm và
mang nhiều ảo tưởng quá Huy. Đó không phải là điều tốt cho em đâu. Em sẽ vì nó
mà chịu nhiều bất hạnh.
Huy nhìn Quân đăm đăm, ngạc nhiên thấy
Quân chỉ với những lời giản dị như vậy đã nói thật chính xác được những gì mà
chính anh cũng đã từng cảm nhận một cách mơ hồ. “Anh Quân hiểu mình còn hơn
mình hiểu chính mình nữa!” Huy la thầm trong bụng. Quân nói tiếp:
- Em đang băn khoăn về những điều hư huyễn
đó Huy. Tốt hơn em nên cố gắng dẹp bỏ đi những khái niệm phân biệt về bản chất
con người. Con người chỉ đơn giản là con người thôi. Có tốt, có xấu, có thiện,
có ác, có sự hèn nhát song song với bản chất anh hùng. Tốt hay xấu, thiện hay
ác, hèn nhát hay anh hùng theo đánh giá của người khác ngoài bản thân của một
cá nhân chỉ là cái vỏ bên ngoài, là hiện tượng, biểu hiện nhất thời. Nếu đúng
lúc, đúng thời cơ thì nó là hay, nếu không đúng lúc thì nó là điều dở, chỉ vậy
thôi Huy. Tất nhiên, ở mỗi cá nhân, mức độ giữa những bản chất này có khác
nhau. Nhưng có ích gì việc đi đánh giá, khen chê, phẩm bình người khác, và đặt
niềm tin nơi người khác. Em chỉ nên quay lại nhìn nhận chính mình, chỉ nên tin
vào con người nói chung, chứ không phải là bất cứ một con người cụ thể nào...
Quân chợt ngưng lời. Anh thấy lòng quặn
lên một nỗi xót xa khôn tả. Anh đã cảm nghiệm, kinh qua những điều vừa nói với
Huy bằng chính những mất mát đổ vỡ của mình. Anh chợt thấy băn khoăn. Huy còn
trẻ quá, còn hồn nhiên chân thật nào khác gì một đứa trẻ thơ. Huy chính là hình
ảnh của chính anh thời thơ dại: đầy khát khao hiểu biết, đầy mơ tưởng ngây thơ,
đầy niềm tin, hy vọng… Có nên nói với Huy những điều này không? Có thật sự cần
thiết hay không?... Lướt qua đầu Quân một chuỗi hình ảnh của ngày qua: một
thằng Quân nhỏ xíu, ngơ ngác nghe mấy ông cậu bà dì bảo: “Ba má mày chết cả
rồi!” – “Chết là sao hả cậu?” – “Là mày không bao giờ gặp lại ba
má mày nữa.” – “Vậy ba má con đi đâu?” – “Đi xa lắm…” – “Xa tới đâu hả
dì?” – “Xa lắm, có nói mày cũng không biết đâu mà hỏi.” – “Vậy chừng nào
ba má con về?”– “Họ không về nữa đâu, họ đi mãi mãi …” Nó ôm mặt
khóc nức nở. Lần đầu tiên nó đã ý thức về cái chết như là sự xa cách, bất ngờ
và không hiểu nổi; rồi một thằng Quân bụng đói như cào, lang thang trên đường
phố, bị tụi trẻ bụi đời đánh đập, bị chó rượt cắn, bị người lớn mắng chửi khi
nó liều bước vào nhà xin chút cơm ăn; rồi một thằng Quân mặc áo nâu sồng, lưng
thẳng đơ, nghiêm nghị ngồi nghe sư cụ giảng giải những lẽ mất còn, những điều
sắc sắc không không… Có lần, sư cụ đã dạy Quân: “Con không nên tin vào những gì
người khác nói, kể cả một người đáng trọng nhất con từng biết, kể cả Đức Phật,
nếu như người có hiện ra trước mặt con; không nên tin vào sách vở, kể cả đó là
một quyển kinh điển hầu hết mọi người đều tôn sùng ca ngợi, khi chưa tự mình
chứng nghiệm, kinh qua. Một khi con đã tự mình chứng nghiệm, kinh qua, một khi
trái tim con hòa hợp cùng lý lẽ, một khi thâm tâm con cuối cùng mách bảo đó
chính là lẽ phải, điều nên – cái đó, chúng ta gọi là lương tâm – khi ấy, con
hãy tuân theo những gì lương tâm con thúc giục con.” Quân đã cảm nghiệm, đã tự
mình minh chứng tính chất đúng đắn của lời dạy đó sau bao nhiêu năm tháng băn
khoăn. Quân đã hiểu ra một điều: Lẽ phải, hay như sư cụ nói – lương tâm – thật
sự không nằm ở luân lý, đạo đức hay pháp luật. Tất cả những thứ đó đều có thể
đổi thay cùng lịch sử. Lẽ phải là điều cao viễn hơn chúng, vĩnh hằng, thuộc về
mỗi cộng đồng, và cũng thuộc về mỗi cá nhân. Nó đã được di truyền qua bao thế hệ, hình thành và tồn tại trong cuộc
chiến đấu sinh tồn. Nó mang tính cá thể vì nó nằm khuất trong ý thức, tiềm thức
mỗi con người riêng biệt. Nó lại mang tính cộng đồng vì nó là mối dây liên kết
giữa từng cá thể với nhau trong cuộc sống chung. Một người khi hành động một
điều không hợp với lẽ phải đó, sẽ có thể che giấu, dối gạt được người khác,
nhưng không thể che giấu, dối gạt chính mình. Họ sẽ cảm thấy bất an, day dứt,
đau đớn không nguôi, dù đôi lúc đôi khi hay suốt cả đời.
Quân quay sang Huy. Huy vẫn mở to mắt nhìn
anh chờ đợi. Có lẽ trong đầu óc của nó mình là một con người hoàn hảo lắm, là
một tấm gương đáng để nó noi theo… Quân
nghĩ thầm rồi nói tiếp:
- Đừng đặt toàn bộ niềm tin vào bất cứ ai
Huy à… kể cả anh hay người nào khác, nếu không, khi niềm tin sụp đổ, em sẽ
không đủ sức chịu đựng nó đâu. Và điều quan trọng em cần luôn luôn nhớ, là cái
tốt thật sự, cái chân lý thật sự cũng chỉ là tương đối. Em có bản chất tốt, có
niềm tin, vậy hãy tin rằng những điều không làm những người đang sống quanh em
thiệt hại, đau khổ là điều thiện, điều mình phải nỗ lực thực hiện, và chỉ cần
như vậy là đủ rồi. Chỉ vậy thôi cũng đã khiến em phải tự đấu tranh rất gian lao
rồi đó Huy.
Quân ngưng lời, anh thở dài, im lặng một
lúc lâu.
Huy vẫn còn choáng váng với những gì Quân nói. Chúng như những tia
chớp loé lên, sáng rực trong khoảnh khắc, soi rọi đến tận những ngõ ngách thâm
u, mờ mịt nhất trong ý thức của Huy. Tuy vậy, anh không hiểu hết, chỉ cố gắng
ghi nhớ chúng. Huy chợt phát hiện ra một điều kỳ quặc: Quân nói như một nhà tu
sĩ, nhưng anh vẫn hành xử như bao người bình thường khác, vẫn cầm súng chiến
đấu một cách dũng cảm, có thể nói là anh hùng nữa cũng không quá đáng. Có một
sự mâu thuẫn nào đó thật lạ lùng trong con người này! Anh suy tư như một nhà
hiền triết, nhưng sống và hành động như một con người đầy nhiệt tâm, đầy lòng
đam mê cuộc sống. Một lúc sau, Huy hỏi:
-
Tại sao mình lại đánh nhau ở đây anh Quân? Sao mình không để bộ đội K tự lo lấy
chuyện của họ? Em có nghe anh Ngô chính ủy trung đoàn giải thích vấn đề này
rồi, nhưng em thấy nó sao sao đó, không thuyết phục. Mấy bữa trước em qua nghe
ké "ra-dô" bên đại đội 13, anh Vụ có mở đài Pol Pot nghe xem chúng nói
gì. Mẹ kiếp! Chúng chửi quân tình nguyện Việt Nam mình là lũ xâm lược, chả khác
gì mình chửi lính Mỹ trước đây. Liệu người dân Campuchia có coi mình là lũ
ngoại bang xâm lược không anh?
-
Bản chất những người lính tụi mình khác với bản chất những người lính Mỹ. Anh
nói khác ở đây không phải là về cái tốt hay cái xấu. Khác là ở nền văn hoá, ở
tư tưởng, quan niệm, truyền thống dân tộc. Lính Mỹ không hiểu dân Việt, do đó,
hoặc họ sợ hoặc họ coi thường, khinh rẻ dân ta. Còn chúng ta và dân Campuchia
không khác gì nhau mấy, chúng ta và họ có cùng một nền tảng, bản sắc văn hoá
như nhau. Chúng ta hiểu họ, thương mến họ. Và những người dân chất phác này
cũng hiểu và thương mến chúng ta. Còn như tại sao chúng ta lại phải chiến đấu
thế này, là một chuyện không dễ nói. Đúng là nếu chúng ta sớm rút quân về thì
tốt hơn, nhưng tình thế hiện nay rất nhiều chuyện rối ren. Em cũng không nên
thắc mắc dằn vặt làm chi. Nói cho cùng, chúng ta chỉ là những hạt cát bị cuốn
theo vòng xoay của thời đại, của lịch sử thôi Huy.
-
Tại sao lại phải né tránh sự thật hả anh? Em nghĩ nếu không xác định được ý
nghĩa, mục đích, thì làm sao chúng ta có đủ niềm tin và ý chí để chiến đấu. Từ
hồi nhỏ, em đã thích những chuyện hào hiệp anh hùng, thích những bài thơ, bài
hịch hùng tráng. Em nghĩ rằng đối với đàn ông thì chuyện cao quí nhất để làm là
chiến đấu, là “da ngựa bọc thây”.
-
Điều này cũng là một trong những ảo tưởng của em đó Huy ơi! – Quân có vẻ buồn
buồn. Anh dừng lời, im lặng một lúc lâu – Và cũng là điều mà nhiều người ảo
tưởng về nó. Chiến tranh rốt cuộc chỉ để phục vụ cho mưu đồ tham vọng của những
người cầm quyền. Ở những cuộc chiến xâm lược thì điều này đã hẳn nhiên rồi,
không có gì để bàn cãi nữa. Nhưng cả ở những cuộc chiến tranh giữ nước, chống
ngoại xâm, hay nội chiến rồi cũng vậy thôi. Lịch sử đã cho thấy rồi, khi cởi bỏ
được ách thống trị hà khắc, bóc lột của ngoại bang, hay đã lật đổ một chế độ
thối nát nào trước đó, và đã nắm được quyền lực trong tay, người ta thường quên
đi những điều ích dân, lợi nước. Họ, hoặc người kế thừa của họ chỉ còn nuôi
tham vọng củng cố quyền uy hoặc xa hoa hưởng thụ. Chỉ có những người dân, những
người lính tầm thường là mất rất nhiều, mà được rất ít, hoặc chẳng được gì. Trừ
phi là chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, còn thì những cuộc chiến khác
không mang tới cho họ điều gì hay ho cả. Cái họ cần chỉ đơn giản là một mái
nhà, một gia đình êm ấm, một mảnh ruộng vườn nho nhỏ và một cuộc sống thanh
bình... Biết bao nhiêu người phơi xác, tên tuổi cũng vùi sâu vào cát bụi lãng
quên, chỉ để cho một vài kẻ trở thành những vị anh hùng lưu danh sử sách. Từ
khi khái niệm anh hùng nguyên sơ của thời cổ đại xa xưa đã trở thành một chủ
nghĩa – chủ nghĩa anh hùng – nó đã bị biến tướng, đổi thay về chất, trở nên một
sự mê hoặc, một sự lừa dối kinh khủng, đã bị người ta lấy nó làm chiêu bài che
đậy những sự xấu xa, Huy có hiểu không? Mỗi con người đều có khả năng trở thành
một anh hùng, một tài năng để cống hiến cho xã hội, họ vốn mang sẵn trong người
cái đó. Nhưng để làm một anh hùng chân chính thì rất khó, rất hiếm hoi... Anh
đã từng băn khoăn, nghĩ ngợi nhiều về vấn đề này, nhưng rồi thấy nó thật là
phức tạp. Có những điều chúng ta có thể cảm nhận phần nào, nhưng không thể diễn
tả nó ra một cách minh bạch bằng lời đâu Huy… Thôi, đừng nói chuyện này nữa nghe
Huy. Có lẽ càng nghĩ về mọi sự một cách giản đơn, càng dễ chịu, ít gặp rắc rối
hơn đó Huy. Nhiều khi, anh ước ao mình không hiểu biết gì cả, thế lại hóa
hay...
Quân điểm lại trong đầu những cái tên vua
chúa, anh hùng; những cuộc cờ chính trị tranh đoạt thế quyền đầy khí trá, gian
manh, thủ đoạn ghê người, đẫm máu và nước mắt của biết bao nạn nhân vô tội; sử
sách còn rành rành ghi lại đó. Ở bất kỳ thời nào, ở bất kỳ nơi nào trên quả đất
bé nhỏ này, những chuyện như vậy vẫn cứ diễn ra. Nó vẫn diễn ra dù là dưới
những hình thức khác nhau. Bao giờ con người mới thật sự xoá bỏ được mọi khái
niệm phân biệt hữu danh vô thực, để yêu thương nhau, để sống một cuộc sống
thanh bình, an lạc? Sống không phải để hận thù ganh ghét. Sống để yêu thương và
sáng tạo. Để mỗi một con người đều là một vì sao, một mặt trời nhỏ tự tỏa sáng
bằng ánh sáng của chính mình. Sẽ có một ngày như vậy đến hay không? –
Quân tự hỏi lòng.
Huy thân thiết nhìn Quân. Mãi đến hôm nay,
Huy mới có một cuộc trò chuyện thật sự với anh. Quân nói nhiều điều thật là mới
mẻ, dù có những chỗ Huy chưa thật hiểu, và đôi chỗ khác Huy không đồng ý với
Quân, nhưng Huy vẫn thấy lòng tràn ngập một niềm quý mến và cảm phục anh. Không
rõ vì sao, lòng Huy chợt rộn lên một niềm ước ao mãnh liệt – được nắm lấy bàn tay
Quân, nắm và xiết thật mạnh, thật lâu.
Trầm ngâm một hồi, Huy hỏi:
- Anh Quân thích viết như vậy, chắc hồi đó
anh học khoa văn phải không?
- Anh học khoa triết. Anh yêu triết học từ
hồi còn nhỏ. Hồi đó, tối tối sau buổi tụng kinh, sư thầy thường ngồi giảng dạy
cho anh mọi lẽ. Lớn lên một chút, anh đọc mấy cuốn triết khô khan còn mê mải
hơn đọc tiểu thuyết. Nhưng triết học không giải quyết được vấn đề của cá nhân
đâu Huy ạ. Triết học chỉ là cánh cửa mở hé cho ta thấy ánh sáng bên ngoài. Còn
nguồn sáng ở đâu, tự thân mỗi người phải đi tìm nó. Huy biết không, anh viết vì
cảm thấy hạnh phúc khi đang viết. Anh không nghĩ những gì mình viết là hay, hay
có giá trị gì cho người khác. Tuy vậy, anh vẫn gửi đi. Anh nghĩ đó là sự thể
hiện mối quan tâm tới người khác, ý muốn hòa đồng, chia sẻ với người khác, và
tình thương yêu cuộc sống của anh. Anh làm hết những gì mình có thể làm, vậy là
anh thấy yên ổn trong lòng.
- Chắc anh Quân có làm thơ? Hôm nào anh cho em đọc với
nghe.
- Anh không có năng khiếu về thơ ca như Huy đâu. Thơ
anh dở lắm. Nói đúng ra, đó không phải là thơ, mà đơn giản là những suy nghĩ
xếp thành vần. Để rồi anh sẽ đưa Huy đọc. Thôi, ngủ đi Huy. Đêm nay là ém quân
vào cứ điểm rồi. Ngày mai sẽ là một ngày vất vả.
Huy nghiêng người, nhắm mắt lại. Anh rơi
vào giấc ngủ ngay sau đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét