Thứ Hai, 10 tháng 9, 2012

Mùa xa nhà - Chương V






CHƯƠNG 5


Con Chíp thật là nghịch ngợm. Nó cứ mổ mổ vào môi Huy làm anh không sao ngủ được yên. Huy bực mình tóm nó, co ngón tay ký mấy cái nhẹ vào cái đầu bướng bỉnh. Khi Huy buông tay, nó bay vù ra đậu trên cành cây nghiêng xuống trước cửa lều, chẩu đôi mỏ nhọn nguyền rủa anh: “Cút mẹ mày đi! Cút mẹ mày đi!”
Ụ Mối toàn dạy cho tên đệ tử của hắn những câu linh tinh, bậy bạ, và con sáo này cứ cố tình áp dụng bừa bãi tùy hứng, chẳng ăn khớp hoàn cảnh tí nào. Có khi mọi người đang ngồi vui vẻ trò chuyện, nó chợt kêu lên, theo cái khẩu âm trọ trẹ nặng nề của Ụ Mối: “Tối rồi ngủ đi! Tối rồi ngủ đi!” Có khi, giữa buổi trưa vắng lặng, nó buồn tình réo mãi liên hồi:  “Nghỉ cho mát! Nghỉ cho mát! Nghỉ cho mát!...”
Một lần, tiểu đoàn trưởng Văn ghé trung đội, nó oang oang thét vào mặt anh: “Mê mai cầm pê, mê mai cầm pê![1] Chơi mãi quên về, chơi mãi quên về!..”
Huy thường quần mấy bụi cỏ bắt châu chấu, cào cào cho con Chíp, nên nó rất khoái anh. Trừ Ụ Mối, chỉ có Huy là có thể kêu nó đậu xuống tay, hay huýt sáo rủ nó đi theo vào rừng.
Có con Chíp, nhiều khi cũng vui vui, khuây khỏa, nhưng nhiều khi mọi người bực phát điên lên với nó. Nó tha mấy cái muỗng mà ai đó quên nhét vào túi cóc ra tận ngoài trảng cỏ, quăng ở đó. Nó mổ vào cái lon đựng thuốc rê, lôi từng nhúm thuốc ra, bỏ vương vải trên nền đất, rồi nhảy lên thành lon nhún nhún, cho đến khi cái lon nghiêng úp lại, thuốc, giấy đổ tung toé. Lúc đó, như đã hoàn thành một kỳ công ghê gớm, cu cậu bay lên cây ưỡn ngực hót lên một tràng đắc thắng.
Nhưng buồn cười nhất, là nó cũng biết trả đũa ra trò. Trong trung đội, nó ghét nhất là Phái điển, vì anh hay đuổi bắt nó, vung cành cây quất dọa nó những khi nó phá nghịch. Một lần, canh lúc Phái đang ngủ, nó len lén bay tới, nghiêng người thả một bãi phân vào mặt anh với sự chính xác của một phi công tác xạ bậc thầy. Lần ấy, Phái điển nổi khùng, suýt đập chết nó nếu Ụ Mối không kịp thời ngăn anh lại. Từ đó, Phái không đá động gì đến con Chíp nữa, mặc cho nó quậy phá cỡ nào, anh cũng cố bịt mắt, lấp tai làm ngơ đi. Kể ra cũng tội nghiệp cho Phái, đành phải nhịn thua một con chim nhãi nhép nhưng vô cùng láo xược.
Huy vươn vai, rồi ngồi dậy. Nắng bên ngoài lấp loáng qua kẻ lá, đổ xuống mặt đất những đốm hoa loang lổ nhỏ to. Từ sau hôm Huy về trung đội, trời đã dứt hẳn mưa. Cho đến hôm nay, những gì một tuần mưa dầm mang lại đã biến đi không còn dấu vết gì. Mấy bồn nước lại chỉ còn lưng lưng nước tải từ hồ về. Mặt cát lại khô rang, nóng bỏng. Không khí lại oi nồng. Chỉ có những hàng cây là còn giữ lại được phần nào nét xanh mát của mưa, với những chùm lộc non biên biếc vừa mới nhú.
Ụ Mối nằm xoay trở nãy giờ mà không dỗ giấc được cũng lồm cồm ngồi lên, bảo Huy:
- Tụi mình đi đào giông đi Huy.
Huy gật đầu, bước tới góc lều, nơi dựng xẻng cuốc cầm lấy hai cái, vác lên vai. Con Chíp từ ngoài lượn vào, bay vòng vòng quanh Ụ Mối kêu léo nhéo. Ụ Mối giơ tay lên đe nó:
- Mi chuyên quấy giấc tụi tao. Có bữa ông cáu tiết lên đem xáo măng bây giờ.
- Đau lòng cò con! Đau lòng cò con! – Con Chíp quàng quạc kêu lên. Ụ Mối trợn mắt nhìn nó, tự hỏi thầm: “Trời đất! Con quái này học ở đâu vậy? Làm như nó hiểu được tiếng  người!”
Huy nhìn vẻ mặt ngơ ngác của Ụ Mối, bật cười. Anh giải thích với hắn:
- Không phải nó biết ông nói cái quái gì đâu. Hôm qua, tôi vừa cho nó ăn vừa đọc mấy câu “Con cò mà đi ăn đêm...”  Bây giờ, nó nghe ông nói xáo măng, nên nó nhớ tới câu kế, đọc tiếp cho ông nghe đó!
Ụ Mối vỡ lẽ, gật gù cười khà khà, rồi hắn bước ra cái bồn, múc một chút nước đổ vào cái khăn, đưa lên lau bộ mặt pháo đài kiên cố của mình.
Hai người đi về hướng đông. Hướng này bọn Huy chưa khai thác nhiều, có lẽ “tài nguyên-thực phẩm” còn phong phú. Bãi cát ở sau một khoảng rừng thưa, không có cây to mà chỉ lơ thơ những bụi cây cao ngang đầu người, đôi chỗ có cả những bụi xương rồng to lớn, lởm chởm những gai. Nó kéo dài khoảng năm sáu trăm mét, rồi băng qua một ngọn đồi thấp đầy đá cuội, luồn vào những hàng cây đồ sộ, nơi bắt đầu của cánh rừng già.
Hang giông có đáy nằm cách mặt đất khoảng nửa mét đến một mét, tùy theo kích thước to nhỏ của “chủ nhân”, và thường là đâm xéo từ trên xuống một quãng, rồi bẻ ngang song song với mặt đất theo dạng chữ L.
Đào bắt giông không khó. Điều chủ yếu là phải xem dấu chân ở miệng hang để khỏi phí công vô ích. Mấy hôm trước chưa có kinh nghiệm, cứ nhìn thấy hang là Huy hùng hục đào, rốt cuộc chỉ là một cái hang trống, hoặc có những sinh vật khác đang trú ngụ; đôi lúc là một con cóc già xụ, to kềnh; đôi lúc là một chú bò cạp núi khổng lồ, đỏ rực như than đang cháy, giơ hai chiếc càng đồ sộ lên thủ thế. Ụ Mối giảng giải với Huy:
- Ông phải nhìn thật kỹ xem miệng hang nào có cát xước thành những vệt nhỏ, đó là vết chân giông, thì đào mới có. Hang nào mà miệng trơn nhẳn thín nỏ có gì đâu.
Có khi, đào tới cuối hang nhưng chận không kịp, chú giông nhào lên cong đuôi phi sang một cái hang khác gần đó chui xuống, phải làm lại từ đầu. Huy rút kinh nghiệm nên thủ sẵn một cành cây có nhiều nhánh nhỏ. Con giông nào vừa xuất hiện tính chạy là anh quất ngay, xem ra rất có hiệu quả.
Đi vòng vòng một lúc, cả hai đã bắt được sáu con to, khoảng hai tấc đến hai tấc rưỡi không kể cái đuôi dài. Ụ Mối nói:
- Thôi, bao nhiêu đây đủ cho bữa ni rồi. Để dành đó cho mấy ngày sau.
Huy kéo Ụ Mối tới ngồi nghỉ dưới bóng một lùm cây. Anh móc trong túi cái bao đựng thuốc rê ra, vấn một điếu rồi đưa sang Ụ Mối. Hôm trước, trung đội tải theo xe trung đoàn về cứ, tụi anh đã nhờ họ mua giùm ít thuốc rê và trà. Cả trung đội được một phen hút thuốc uống trà thỏa thuê, bù lại những ngày thèm nhớ.
Huy khoan khoái rít một hơi thuốc thật sâu, rồi chầm chậm nhả khói ra. Anh đưa mắt nhìn lơ mơ về phía ngọn đồi. Dưới ánh nắng, những hòn cuội trắng, đen, xam xám đủ màu đủ cỡ óng a óng ánh như những hòn ngọc quí. Cả ngọn đồi rực rỡ, sáng loá lên. Huy hỏi Ụ Mối:
- Anh Quân lính bảy chín sao bây giờ vẫn chưa ra quân vậy hả Dũng?
- Ông chưa biết sao, anh ấy đâu còn họ hàng thân thuộc gì nữa mà về. Trước khi vào lính, anh Quân ở trong chùa...
Ụ Mối duỗi hai chân ra, kể cho Huy nghe về cuộc đời Quân.
Quân là con một của hai vợ chồng làm nghề buôn chuyến. Trong một chuyến từ Huế trở vào Sài Gòn, chiếc xe bị lật nhào rơi xuống vực. Cả hai người đều chết tại chỗ. Năm đó, Quân lên bốn, do một người vú nuôi mẹ anh thuê chăm sóc. Sau tai nạn, bà ngoại Quân đón anh về nuôi. Nhưng bốn năm sau đó, bà cũng bị bệnh mất đi. Tài sản của ba mẹ và bà đều bị những ông cậu, bà dì họ giành giật, chia chác tiêu tán hết, nhưng lại chẳng ai buồn nhớ tới việc nuôi nấng, dạy dỗ đứa trẻ tám tuổi bất hạnh. Nói chính xác hơn, họ rất quan tâm đến chuyện đó, nhưng ai cũng thành thật tin rằng đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của một người khác chứ không phải của mình. Họ đun đẩy qua lại, trách móc nhau, cãi cọ nhau, rồi chửi rủa nhau ngày này qua ngày khác về chuyện nuôi nấng đứa nhỏ, dạy dỗ cho nó nên người, nhưng lại lờ đi chuyện đứa nhỏ cần một bữa ăn, cần một sự lo lắng, thương yêu bằng hành động.
Quân lần mò về thành phố, đi lang thang xin ăn một thời gian. Rồi một bữa anh bị mắc mưa, cảm sốt nằm mê man trước cổng một ngôi chùa nhỏ. Trong chùa, chỉ có một vị sư già trụ trì và một chú tiểu lớn hơn Quân khoảng năm sáu tuổi. Họ bắt gặp anh đang nằm co quắp, ôm anh vào săn sóc, chữa bệnh. Sau đó, vị sư già cho Quân ở lại chùa, nuôi dạy anh cho đến lúc trưởng thành. Quân được nhà sư cho đi học, anh đã có bằng tú tài hai khi Sài Gòn được giải phóng. Sau đó, anh thi đậu vào đại học, nhưng đang học dở năm thứ hai, thứ ba gì đó, thì nhà sư mất. Quân buồn lắm. Anh thương mến vị sư già như cha đẻ. Thêm nữa lúc ấy chiến tranh đang nổ ra ở biên giới, anh liền tình nguyện vào lính, và kể từ đó coi đơn vị như mái nhà của mình.  
Huy ngồi im lắng nghe Ụ Mối kể chuyện.
Ngoài kia, ánh nắng đã bắt đầu dịu dần, phai đi trên những ngọn cỏ tranh héo vàng bên tay phải. Ở rừng bóng chiều ụp xuống rất nhanh. Thường thường, vừa mới đó nắng còn chói chang, nhưng chỉ giây lát sau thôi, những hàng cây đã mờ đi, chìm trong làn sáng mờ mờ vàng nhạt; và ở phía trong sâu hơn, chỉ còn thấy những khoảng tối âm u, thăm thẳm. Mấy con sóc bay và bọn dơi quạ bắt đầu tung ra lượn lờ quanh quẩn để săn mồi.
Không ngờ cuộc đời của anh Quân buồn như vậy, Huy thầm nghĩ.
Qua những ngày sống ở đây, Huy chỉ nhận thấy Quân là một người trầm ngâm, ít nói. Nhưng đôi lúc, anh cũng đùa giỡn, kể chuyện tiếu lâm rất nhộn. Anh không hề làm ra vẻ khó khăn, nghiêm khắc, thế mà mọi người trong trung đội ai cũng có vẻ nể trọng, làm theo răm rắp những lời anh nói, kể cả người lớn tuổi nhất là Già Hương. Mọi người còn có vẻ rất quí mến, gần gũi với anh, giữa họ không hề có một khoảng cách nào. Huy thấy Quân có cái gì đó thật gần, thật giống với mình. Ở chỗ nào, Huy không xác định được, nhưng anh cảm nhận được nó, dù suốt nửa tháng qua, anh cũng chưa bao giờ có một cuộc chuyện trò, tâm sự nào thật sự với Quân, ngoài những lời trao đổi thông thường.
- Lần đó, tôi nhận được thư nhà báo tin mẹ tôi bị bệnh nặng vừa mới chết. Tôi nằm khóc cả ngày, bỏ ăn bỏ uống. Anh Quân đã an ủi tôi, rồi anh kể cho tôi nghe những chuyện này... – Ụ Mối nói thêm – Thôi về đi Huy, chiều rồi đó.
Hai người về tới nơi, cả trung đội cũng đang tập trung lại thành mấy nhóm bên ngoài căn lều nấu bếp.
Ngay trước cửa lều là nhóm sáu người: Phái điển, Trung gấu, Thiện, Tiến cóc, Bình, Hưng. Bên tay trái là nhóm Mợi, Lý, Thái, Phú, Trọng, Cường. Nhóm thứ ba là Quân, Thuận kều, Già Hương. Mỗi nhóm đều ngồi trước một thau cơm, và khẩu phần thức ăn cho sáu người.
Ụ Mối nói:
- Chờ thêm tí nữa các đồng chí thân yêu. Mỗi mâm được phân phối hai con “gà đất”. Nói đoạn, anh bước vào bếp để nướng giông. Chỉ nhoáng sau, mùi thịt nướng đã bốc lên thơm nhức mũi. Vài phút sau, Ụ Mối cầm mấy con giông đã chín, lột bỏ lớp vảy ngoài, để lộ lớp thịt trắng phao, trông hệt như thịt cá lóc nướng ra, chia cho mỗi nhóm hai con. Rồi anh ngồi xuống nhóm của mình.
Thức ăn buổi chiều gồm có một thau canh lá rừng chua, một dĩa muối trộn ớt khô giã nhuyễn, một dĩa thịt heo đóng hộp, giống hệt như buổi trưa, và cả mấy ngày gần đây. Mọi người ăn thật ngon miệng, dù chẳng có gì để gọi là ngon lành, trừ món thịt giông nướng chấm muối ớt. Nhưng hai con xé ra có được là bao, mỗi người chỉ nhón một miếng là hết sạch.
Dạo vừa đánh xong Ampil, trung đội còn lên đó kiếm được chút rau dền, cải, hay bầu bí, trái đu đủ non mà dân tị nạn trong cứ trồng về nấu canh. Rau chỉ có hạn, mà biết bao nhiêu đơn vị cùng tập trung lên hái, nên chỉ vài ngày sau là chẳng còn một cái gốc rau làm thuốc. Trọng có sáng kiến chặt mấy cái đọt đu đủ về cắt ra mỏng, rửa thật kỹ rồi ngâm muối cho tan mủ, sau đó đem nấu canh. Nhưng sau khi ăn món đó, hầu như ai cũng bị đau bụng một trận nên thân, không ai dám nhắc đến món canh đọt đu đủ nữa. Liên tiếp cả tuần, canh chỉ là nước sôi cho tí bột ngọt và muối vào nêm để dễ nuốt trôi cơm. Nhưng thiếu chất xanh, cả bọn bị táo bón gần chết. May sao sau đó Già Hương tình cờ phát hiện được một thứ cây rừng có lá giống như lá mai nhưng mỏng hơn, có vị chua. Anh nấu thử một ít, tự ăn một mình thí nghiệm, rồi thấy bình an vô sự nên thông báo cho cả bọn đi lùng món rau trời cho này về nấu canh suốt từ ấy đến nay. May một cái nữa là khu rừng trước mặt mọc đầy dẫy loại cây này, nên không còn lo thiếu canh nữa. Có điều, lúc đầu ăn cũng khá ngon, nhưng ròng rã mấy tuần, cứ một món canh vừa chua vừa chát, ai nấy đều ngán tới cổ.   
Trung đội cơm nước xong xuôi thì trời cũng đã nhá nhem tối. Quân tập hợp cả trung đội lại  hội ý, phân công gác, xong xuôi phần làm việc, anh cười cười bảo:
- Này anh em, tối nay là mười bốn trăng tròn. Chúng ta sẽ pha trà ngắm trăng. Đề nghị anh Mợi chuẩn bị mấy “bộ phim”mới hấp dẫn tối nay “quay” cho anh em thưởng thức. Thôi, trung đội giải tán.
Mọi người đứng lên, ai về lều nấy. Ở hướng đông, vầng trăng mười bốn to như một chiếc mâm vàng sáng rỡ đã nhú ra.
***
Trong lính, những “nghệ sĩ quay phim” là những người rất mực được anh em sủng ái và chiều chuộng. Anh ta chỉ việc ngồi xếp bằng chễm chệ, mở mồm ra để tường thuật lại những gì mình đã từng đọc được, xem được một cách ung dung.
Thuốc hút ư? Anh em đã vấn sẵn cho anh mấy điếu to kềnh, chỉ cần cất tiếng là lập tức có người đốt lên, đưa tận miệng cho anh, tha hồ mà rít.
Trà ư? Sẽ có người chuyên từ cái ca inox ra loại trà hãm nước nhất, còn bốc khói, xanh biếc, đậm đặc ngon lành, và đưa đến tận tay.
Nếu anh còn chưa vừa ý, còn muốn làm eo làm nũng, bằng cách vặn cổ, uốn lưng than mỏi cổ, mỏi vai, ngay lập tức sẽ có hai tay đấm bóp “đẳng cấp quốc tế” thay phiên nhau đấm lưng, xoa bóp cho anh với đủ bài đủ bản. Những tay đạt được trình độ đại cao thủ trong nghề quay phim còn được thường xuyên hưởng cái vinh dự là khách mời đặc biệt trong những cuộc liên hoan tiệc tùng ngọt, mặn của các trung đội, thậm chí đại đội lân cận.
Tuy nhiên, “nghề chơi cũng lắm công phu!” Chẳng phải dễ gì mà một bước lên ngay cái chức vua không ngai như vậy.
Trước hết, anh phải là một tay biết nhiều hiểu rộng, là bậc làu thông các tác phẩm nghệ thuật lừng danh kim cổ. Thứ hai, anh phải có một trí nhớ hoạt động một cách bền bĩ và liên tục trong một câu chuyện “ma-ra-tông”, có khi phải kể suốt mấy đêm liền mới hết. Thứ  ba, anh phải có một năng khiếu bẩm sinh về nghệ thuật kể chuyện, nghĩa là anh phải biết cách làm cho câu chuyện trở nên ly kỳ, hấp dẫn lên gấp bội, phải thêm thắt, phịa ra bằng một sự ngẫu hứng thiên tài những tình tiết nhỏ to, mà chẳng lần nào giống lần nào một câu chuyện; biết ngưng lại đúng lúc một câu chuyện đang lên đến điểm nút, cao trào, để người nghe phải nôn nóng, thòm thèm muốn nghe kể tiếp ngay, dù tình thế khách quan bắt buộc câu chuyện phải tạm dừng ở đó.
Vì những yêu cầu khắt khe như vậy, số lượng những nhà kể chuyện bậc thầy càng trở nên hạn chế, trong khi giá trị của họ càng được nâng cao.
Trung đội được cái diễm phúc vô cùng là có một người như vậy, làm rạng rỡ cả tiếng tăm chung, làm thơm lây cho những anh em khác. Người đó chính là Mợi lác.
Mợi là lính 83, dân Quận 1, khu chợ Cầu Ông Lãnh. Đã là lính, không anh nào tránh khỏi cái món lác. Bởi vậy, người ta mới có cơ sở để tạo ra một danh từ kép đầy hình tượng: “lính lác”. Lính phải có lác, cũng như sông hồ phải có cá, rừng phải có muông chim, điều đó gần như trở thành qui luật! Chính bản thân Huy, hồi còn ở Quang Trung cũng đã bị lác, dù rất vệ sinh, kỷ lưỡng, có ngày tắm tới ba lần! Không riêng gì anh, cả đại đội lúc bấy giờ đều như vậy. Có lẽ, một tay nào đó có mầm mống vi nấm lác trên người đã ẩu tả nhảy vào hồ chứa nước, làm lây nhiễm cả tập thể anh em. Báo hại cứ chiều chiều, sau giờ cơm, toàn đại đội đều tiến hành cuộc “tổng tấn công tiêu diệt lác!”  Mà thuốc thì chả có gì ngoài nước Iode, hoặc cồn 90o. Chứng lác có một đặc điểm là thường tập trung ngay tại “cơ quan đầu não,” “bộ tổng hành dinh” của quí vị mày râu. Vậy nên cái quang cảnh lúc ấy thật là náo nhiệt. Mọi người đồng loạt lúi húi thoa thoa, xức xức, đồng loạt rú lên những tiếng thét xung phong, và đồng loạt nhảy disco, hay giật soul cho nguôi cơn nóng rát.
Dù sao, lác không phải là một chứng nan y hay khó trị, nên sớm muộn gì nó cũng bị tiêu diệt, trừ những ngoại lệ vô cùng cá biệt, hiếm hoi, ví dụ như  trường hợp của Mợi lác. Lác ở anh lan tràn, bành trướng trên toàn bộ mọi bề mặt có lỗ chân lông! Và, hình như nó rất quyến luyến anh, nên nếu anh trị được hết ở chỗ này, thì nó lại chuyển hộ khẩu sang một “địa phương” lân cận. Cuối cùng, Mợi kiệt sức, đầu hàng trong cuộc chiến không cân sức này, anh bắt tay với lác, “chung sống hòa bình” với nó. Anh chỉ còn khổ một cái là phải cẩn thận, dè dặt để tránh cho lác khỏi buồn tình làm một chuyến ngao du qua các cơ thể khác...
***
Đêm. Cả trung đội ngồi thành một vòng tròn trên mấy chiếc chiếu.
Trăng đã lên cao gần giữa đỉnh đầu, tỏa xuống một ánh sáng vằng vặc, dịu dàng. Dải cát dưới ánh trăng mịn màng một sắc trắng lạ lùng, huyền ảo. Dường như nó không còn là một vật thể khô khan, thô thiển và làm mắt người ta nhức nhối như dưới ánh mặt trời. Dải cát giờ đây mềm mại, mỏng manh như một chiếc khăn lụa đang nhấp nhô phấp phới, uốn lượn qua những gò, những lũng, những đồi. Những cây cổ thụ lẻ loi, những lùm bụi thấp rải rác, và những hàng cây ở phía xa hiện lên dưới ánh trăng có vẻ hư ảo mơ hồ, như trong một bức tranh thủy mặc. Trên những thân cây mọc gần lều, ở những chỗ có rêu hay địa y bám sáng lên lấp lánh, những chiếc lá như được tráng một lớp bạc mỏng. Các chỗ khuất mà ánh trăng không lọt tới tối và sậm màu hơn, nhưng cũng phát ra một làn phản quang yếu ớt.
Bao giờ ngồi dưới bóng trăng, Huy cũng thấy bình an, thanh thản dù đang rất buồn lo một điều gì đó. Ánh trăng hình như có một nguồn sức mạnh kỳ diệu lạ thường, nó vỗ về, xoa dịu, và nâng hồn người đến một cõi cao xa, hòa vào hồn đất trời, cây cỏ.
Ánh trăng vằng vặc giúp cho người lính gác đêm có tầm quan sát rộng, dễ dàng phát hiện mọi hiện tượng diễn ra trong tầm mắt, giúp cho những đêm xa nhà ngắn lại, vui hơn, dễ chịu hơn. Anh em ngồi quây quần tán gẫu, nghe kể chuyện, hoặc cùng nhau nhảy lăm thôn, khiêu vũ đôi những điệu slow, tango, bebop dìu dặt, hay điệu chachacha, valse náo nức rộn ràng... Có lẽ vì vậy, những đêm có trăng với lính là những đêm tuyệt diệu.
Mợi đang kể đến một đoạn hấp dẫn ở phần đầu truyện Đồi gió hú. Mọi người ngồi im lắng nghe. Thỉnh thoảng, chỉ có tiếng một cơn gió cuốn qua lay động lá cành. Giọng kể của Mợi sôi nổi, lôi cuốn làm ai cũng quên đi cả giờ giấc. Bỗng từ xa, cách khoảng ba trăm mét về hướng Nam, có ánh đèn pin loang loáng tiến dần về lều trung đội. Trọng đang ngồi gác bên ụ súng quát lên:  
- Ai?
- Tâm  cối đây mà! – Bóng người đang đi tới hét lên đáp, và tắt đèn pin.
Tâm đã tới gần hơn, đủ để có thể nhận diện được dưới ánh trăng. Anh nói một cách ồn ào:
- Chà, 12 ly cũng đang thưởng trăng phải không. Bên Cối cũng ngồi chơi nãy giờ. Ông Đạt nhớ anh Mợi, bảo tôi qua đây mời anh qua bển chơi, quay vài khúc. Tôi đã biết thế nào anh cũng có sô ở đây rồi, mà nói ổng không nghe, cứ một hai bảo tôi cứ đi bằng được. Thôi, giờ cho ngồi đây tham dự với mấy anh luôn nghe.
Phái điển và Trung gấu ngồi nhích qua chừa chỗ cho Tâm. Cả ba là đồng hương Quận Tân Bình với nhau, cùng sang đây một lượt. Tâm rất nghiền nghe kể chuyện. Anh là một trong những người hâm mộ Mợi còn hơn cả nhỏ bồ ruột của mình. Có lần, Mợi sang B Cối kể chuyện, trung đội chả ai còn giấy, Tâm lấy cả lá thư nhận được lúc chiều của nhỏ bồ, mà anh cũng chỉ mới đọc lướt qua, xé ra vấn thuốc cho Mợi.
Một lúc sau, Trung gấu đột nhiên đứng dậy. Nét mặt Trung có vẻ kỳ lạ, bồn chồn. Anh im lặng bước khỏi vòng tròn. Mợi ngưng kể, nhìn chằm chặp Trung. Thường ngày, Trung rất thích nghe chuyện, không bao giờ anh bỏ qua một chuyện ngắn chuyện dài nào. Trung đi chầm chậm về phía ụ gác, nhưng còn cách chỗ Trọng khoảng vài chục mét thì dừng lại, ngồi bệt xuống đất. Dáng ngồi của Trung dưới ánh trăng trông thật buồn bã, cô đơn.
Phái điển làu bàu:
- Chắc là nó lại nhớ anh Trung liều, lại nghĩ ngợi vẩn vơ!
Mọi người im lặng trong giây lát.
Phát điển nhóng người về phía Quân, nói tiếp:
- Mấy hôm nay nó có vẻ bất thường lắm anh Quân! Giống như khùng khùng vậy.
Quân nhíu mày. Anh trầm ngâm một lúc, rồi nói:
- Anh em nên chú ý quan sát Trung, gần gũi động viên nó. Nhất là Phái đó, nghe không.
Mọi người lại im lặng. Rồi Mợi cất tiếng:
- Thôi, ta tiếp tục câu chuyện... 
Đêm trôi nhanh. Vầng trăng đã hơi chếch trên cao về hướng Tây. Những vì sao khuất dần, chỉ còn lại những ngôi sáng nhất. Tiếng gà rừng eo óc gáy ở đâu đó rất xa vọng đến mơ hồ.
Câu chuyện ngày càng thu hút hơn qua giọng kể lúc bổng lúc trầm của Mợi. Đến một lúc, khi Mợi cầm chén trà nhấp một ngụm lấy giọng, Quân nói:
- Thôi, Mợi kể hết đoạn này nữa là giải tán. Chúng ta còn phải nghỉ ngơi để mai bắt đầu tập với các đại đội chiến thuật đánh phối hợp với tăng.









[1] Bà góa hàng trăm! Bà góa hàng trăm!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét