CHƯƠNG 11
Thấm thoắt tiểu đoàn đã trở về nội địa hơn
hai tháng. Trong thời gian này, đơn vị đã có nhiều đợt hành quân truy quét trên
địa bàn đóng quân. Thường mỗi đợt như vậy kéo dài từ ba bốn đến chín mười ngày.
Có lúc họ đi về hướng đông nam huyện, nơi
trảng lúa chạy dài mãi cho đến khi tiếp giáp biển hồ Tông-lê Sáp; có lúc họ đi
về hướng bắc-tây bắc, nơi những dãy núi đất đứng trầm lặng uy nghiêm, trên mình
khoác lớp áo rừng cây nhiệt đới rậm rạp, chằng chịt dây leo. Có khi cả tiểu
đoàn hợp thành một mũi truy quét trọn một vòng; cũng có khi ba đại đội chia
thành ba mũi khác nhau đi về ba hướng, khối hỏa lực trực thuộc tiểu đoàn đón
lõng ở một nơi. Những cuộc hành quân này tiến hành vào thời điểm những cơn mưa
đầu mùa tuôn trút như thác đổ. Nhiều lúc đoàn quân đi trong một biển nước mênh
mông, nước dâng đến đùi, đến hông, trên đầu là cơn mưa xối xả. Đoàn quân – như
một đoàn thuyền dằng dặc – cắt một con đường qua làn sóng xanh ngút ngàn những
ngọn lúa mùa dài ngoẳng.
Có những đêm, đơn vị hành quân len lỏi qua
những căn nhà sàn thuộc một phum xa lạ dưới ánh sao nhàn nhạt. Thỉnh thoảng,
một vài con chó chợt giật mình tru lên một tràng tức tối, rồi mọi thứ lại im
lìm. Nhiều lần Huy đi sát qua vách một căn nhà nào đó, anh hầu như nghe thấy cả
tiếng một đứa bé ngủ mê ú ớ, tiếng ngáy đều đều, tiếng xoay trở mình trên lớp
ván sàn của một người dân, lòng Huy dâng dâng một niềm xao xuyến bồi hồi khó
tả. Chính bằng những đêm hành quân như vậy, Huy và đồng đội đã giữ cho giấc
ngủ, cho cuộc sống nhân dân được yên bình. Từ những đêm trắng hành quân, từ
những cuộc múa lăm thôn tưng bừng náo nhiệt, từ những đêm trăng giúp dân giã
gạo, từ những ngày mùa giúp dân nhổ mạ, cấy lúa... tình thương yêu gắn bó đã
đâm chồi.
Đoàn quân đi rất lặng lẽ. Ai đó tinh ý lắm
mới nghe thấy được tiếng lớp vải dày của hai ống quần cọ vào nhau kêu sột soạt,
tiếng bước chân đằm đằm dội vào lòng đêm quạnh vắng. Đêm ngan ngát hương. Mùi
của lớp cỏ đẫm sương bị giày xéo thơm như hơi thở trẻ con. Mùi thơm rất khẽ
khàng của những loài hoa dại như lơ lững giữa không gian. Hương đêm cứ bềnh
bồng trôi qua mặt, thoang thoảng vương lên tóc, thấm vào tận đáy lòng. Đôi khi,
đoàn quân đi qua những khoảnh đất rộng mọc đầy những khóm ngò gai và rau húng.
Mùi rau thơm thoang thoảng gợi lên trong lòng những người lính nỗi nhớ quê nhà,
gợi nỗi thèm thuồng khi tưởng tượng ra những bát phở ngon lành bốc khói.
Cũng có khi đoàn quân đi dưới ánh trăng
non một đêm thượng tuần lờ mờ sáng. Kẻ đi sau bíu lấy ba lô người đi trước, đôi
mắt nhắm nghiền, vừa lơ mơ ngủ vừa bước theo quán tính. Đôi lúc, cơn ngủ quá
say, người trước đã quẹo về hướng khác, người sau vẫn cứ lùi lũi theo hướng cũ,
chợt đâm sầm vào một gốc cây, bụi rậm nào đó mới giật mình mở mắt ra hốt hoảng.
Những trận đánh trong những đợt truy quét
như thế này, nếu có, cũng không có gì căng thẳng. Thường thì họ chỉ đụng phải
những nhóm nhỏ, khoảng chừng mươi mười
lăm tay súng. Thế nên chỉ cần bao vây, nổ súng giây lát là chúng buông súng đầu
hàng, hoặc chạy trốn mất vào những cánh rừng rộng lớn.
Trong hai tháng, chỉ có trận đánh ở gần
phum Đôn là hơi thú vị. Trinh sát tiểu đoàn đi bám phát hiện được một lực lượng
khá đông, khoảng một đại đội lính Polpot vừa đến đóng ở một phum bỏ hoang nằm
kề phum Đôn. Phum này nằm ở hướng đông, cách cứ khoảng hơn ba mươi cây số. Ngay
đêm hôm đó hai đại đội được lệnh xuất kích. Đại đội 12 làm mũi chủ công, được
tăng cường thêm trung đội 12 ly 7. Đại đội 11 đón lõng ở hướng tây bắc, chặn
đường rút của địch vào rừng. Đó là một đêm cuối tháng, nhằm ngày hai mươi chín
hoặc ba mươi âm lịch, trời tối đen như mực. Gần bốn giờ sáng, họ tới rìa phum
hoang. Đoàn quân dò dẫm đi từng bước khi bắt đầu xuyên vào khoảng lùm bụi um
tùm vây bọc quanh phum hoang. Dẫn đầu đội hình là hai tay trinh sát tiểu đoàn,
kế đó là trung đội bốn, kế nữa là trung đội súng máy 12 ly.
Thắng, một trong hai trinh sát đang cắt
đường, bỗng nghe tiếng ho khù khụ ở ngay trước mặt, cách không đầy mười mét.
Anh đứng sững ngay lại, thầm hú vía trong bụng. Nếu tên địch nào đó mà không
bật ho lên thì rất có thể đại đội đã đạp cả lên võng của chúng rồi. May sao bọn
địch vẫn chưa phát hiện ra ta đang ém sát bên. Có lẽ chúng đã hút quá nhiều cần
sa nên ngủ mê man quên trời đất. Cả mấy tên lính gác cũng đang ngủ gà gật.
Không thì quân ta cũng khá là vất vả!
Thắng khoát tay, kề miệng vào tay Phụ, đại đội trưởng C12, thì thào:
“Có địch!” Phụ và một vài người đi đầu cũng đã nghe thấy tiếng ho. Lập tức đại
đội lui lại phía sau một khoảng, triển khai đội hình chiến đấu. Phụ bò qua chỗ
Quân. Anh khẽ nói:
- Chúng ta sẽ nổ súng khi vừa rạng sáng.
Ông cho phát hoả trước. Đồng thời, vừa nghe 12 ly nổ, mấy khẩu B của tôi cũng
nổ ngay. Tụi nó chỉ có nước tưởng bị sấm sét đánh xuống đầu!
Quân hạ lệnh lắp súng.
Thường ngày khi tập luyện anh em thao tác
rất nhanh. Quân cho tập bịt mắt tháo lắp dự phòng tình huống chiến đấu trong
đêm, mọi người cũng chỉ mất hơn bốn phút là xong.
Thế nhưng đêm đó mấy số súng cứ loay hoay
mãi mới lắp xong, ai cũng mồ hôi lăn ròng ròng trên trán. Họ hồi hộp vì cách
địch quá gần, e chúng nghe thấy tiếng động lách cách mà tương ngay một quả B
vào thì toi cả đám!
Lắp đạn xong, Huy bò qua chỗ Quân ra hiệu.
Quân nói nhỏ:
- Thôi để anh bắn. Huy và Thuận lui ra hai
cánh nằm xuống đi.
Mọi người đã đâu vào đó, sẵn sàng cho trận
đánh. Quân nới khoá hướng, xoay nhẹ qua lại vài lần kiểm tra. Sau đó, anh lấy
tầm ở khoảng cao ngang hông, tức là chiều cao trung bình chiếc võng địch mắc, rồi khoá cứng lại. Và họ
nằm im, chờ đợi.
Những giây phút như lúc này bao giờ cũng
là lúc mọi người nghĩ thật nhiều và nhớ thật nhiều. Họ nhớ cha mẹ, hoặc vợ con,
hoặc người yêu, hoặc thậm chí một con cún con nào đó nhà nuôi từ hồi còn họ còn
nhỏ xíu, một cây ổi già đã họ ngồi chênh vênh suốt những buổi trưa hè thơ dại,
nhưng cuối cùng, dù cho nhớ ai, nhớ gì đi nữa, thì họ cũng nhớ tới với một tình
yêu sâu sắc. Có thể một khoảnh khắc sau, ai đó trong số họ sẽ không bao giờ
nghĩ và nhớ nữa.
Tiếng gà rừng eo óc gáy dồn, báo hiệu trời
sắp sáng. Đêm nhạt dần. Khi ánh sáng mờ mờ của bình minh đã cho thấy hình dáng
của những lùm cây lúp xúp, họ phát hiện ra nhiều chiếc võng đang giăng rải rác
trước mặt. Xéo về phía tay phải Quân chừng mười lăm mét, một tên lính Pốt ngồi
gác đang ngủ gật, đầu ngoẹo sang một bên vai. Quân đưa hai ngón trỏ và ngón
giữa của bàn tay trái vào hờm sẵn một bên cò – súng 12 ly có hai cò song hành,
và phải xiết bằng cả hai tay, vì sức rung giật rất mạnh, một tay khó lòng kềm
nổi – tay phải anh giật mạnh tay kéo khoá nòng, lên đạn. Tay
kéo vừa đi hết quãng đường kêu đánh rốp một tiếng vang khô khốc, thì ngay lập
tức tay trái của Quân đã xiết cò. Sau đó, anh đưa luôn tay phải vào cò súng.
Quân xiết luôn một điểm xạ dài khoảng nửa băng, quay nòng súng quét ngang một
vòng cung một trăm hai mươi độ. Đạn vạch đường đan những vệt lửa trong màn
sương sớm. Ngay sau tiếng gầm của khẩu trọng liên, mấy khẩu B cũng phát hỏa.
Rồi mọi tay súng đều nổ súng về phía trước.
Địch không kịp phản lại một phát súng nào
ngay tại chỗ. Chúng mất hồn mất vía, chỉ còn biết chạy tháo thân. Khi đã vượt
ra hỏi tầm hỏa lực, hoàn hồn lại phần nào, chúng củng cố lại đội hình và bắt
đầu phản kích. Nhưng chỉ chừng nửa tiếng, chúng nhận ra tình thế bất lợi và
từ từ rút lui vào rừng. Sau một lúc,
trận địa im ắng lại, Phụ hô to:
- Mọi người lên thu dọn trận địa!
Những lùm cây bụi cỏ đẫm ướt sương quanh
một vùng rộng bị giẫm đạp lên tơi tả. Đây đó, trong một khoảng bán kính gần năm
mươi mét, rải rác những chiếc võng bị đạn băm lỗ chỗ, đầy vết máu. Trừ năm xác
chết, bọn bị thương đều cố chạy thoát. Mọi người nhanh chóng thu gom ba lô,
võng và súng địch còn bỏ lại, rồi lên đường quay về cứ.
Chuyến đó, họ thu được tám khẩu AK báng
gấp mới toanh, một B40 bị đạn trọng liên xuyên qua nòng, một B41 và một đại liên đuôi cá, cùng vô số ba
lô. Anh em được một phen phấn khởi. Trên đường rút quân về, họ đi như bay không
biết mệt, huênh hoang khoác lác với nhau về chiến công vừa lập được.
Một lần khác, đơn vị đi về hướng đông
huyện. Đi mãi suốt một đêm ngày vẫn không gặp địch, Tiểu đoàn trưởng Văn quyết
định quay về. Khi vào đến một phum nhỏ, những người đi đầu đội hình phát hiện
khoảng hơn hai mươi tay súng đang rút khỏi phum, chạy về hướng nam. Văn hạ lệnh
cho khẩu đội vận động lên, quyết ghìm chân chúng lại bắt sống. Huy, Thuận, Tiến
là ba xạ thủ chính cứ để nguyên khẩu súng hạ càng trên vai vận động. Con đường
đất băng qua phum lầy lội, trơn như mỡ, làm họ suýt té mấy lần. Phần khác, ai
cũng đã rất đói vì suốt đêm trước hành quân chỉ có một nắm cơm vắt lót dạ, đã
tiêu mất tự đời nào. Lúc tìm mãi mà không gặp, vừa khi định dừng lại nghĩ ngơi
cơm nước, địch lại hiện ra. Chuyện đánh đấm có khi thật oái oăm.
Sau một lúc đọ súng, họ bắt được hơn mười
tên địch. Số kia chạy thoát vào rừng. Những người lính tước súng địch, rồi dùng
ngay mấy chiếc khăn krama chúng quàng trên cổ làm dây trói. Lẽ ra có thể xem đó
là một trận dễ dàng và thắng lợi hoàn toàn, nếu không có ba tay súng của ta bị
thương nhẹ vì mảnh B40 địch bắn trả.
Văn cho đơn vị tiếp tục hành quân về,
không dừng lại nấu cơm nữa. Anh định tới huyện lỵ sẽ nghỉ ngơi luôn thể, đồng
thời đưa mấy thương binh vào trạm y tế huyện để săn sóc tốt hơn. Dọc đường, mọi
người móc bao gạo sấy ra nhá nhá cho đỡ đói.
Trung đội 12 ly được giao áp giải hai tên địch. Quân cho chúng đi trên đầu
đội hình, ngay sau lưng anh. Huy len lên đi phía trước A trưởng Thiện, để kiếm
chuyện hỏi mấy tên tù binh. Anh tò mò muốn biết chúng suy nghĩ ra sao.
Huy quan sát hai tên tù binh. Một tên trẻ
hơn trạc tuổi Huy, tên kia đã hơn ba mươi và trông lầm lì, cau có. Huy đi tới
sát bên tên lính trẻ. Anh vỗ vai hắn. Hắn quay sang nhìn anh, ánh mắt hoảng sợ,
e dè. Huy hỏi:
-
Anh theo Pol Pot lâu chưa?
-
Hai năm rồi.
-
Quê anh ở đâu?
-
Ở dưới mạn Puốc xát.
-
Có vợ con gì chưa?
-
Có vợ rồi, nhưng chưa có con.
-
Sao theo địch mà không ở nhà làm ăn đàng hoàng nuôi vợ?
- Bị bắt phải theo. Không họ giết.
Huy nhìn thẳng vào mắt hắn:
-
Thật không?
-
Tôi không dám nói láo đâu.
Huy gật đầu. Im lặng một lúc, anh hỏi tiếp:
-
Thế anh có nhớ nhà nhớ vợ không?
-
Nhớ lắm. Tôi hay khóc nhiều những lúc gác đêm.
-
Vậy sao không bỏ trốn về?
-
Tôi sợ lính ông Hêng Xam Rin trả thù.
-
Làm gì có! Anh không biết là ra hàng thì được khoan hồng, không bị xử phạt à?
- Không biết đâu. Angkar nói nếu đầu hàng sẽ bị giết hay bị tù.
Huy nhìn tên lính, nét mặt hắn hiền lành chất phác, không có vẻ gì
tàn ác hay dữ tợn. Thế nhưng làm sao biết được hắn đã làm gì. Huy lại hỏi:
- Thế có bao giờ anh bắn giết dân, bắt đàn bà hãm hiếp
chưa?
- Dạ không có, không có đâu! – Hắn lắc đầu lia
lịa, mặt tái đi.
Đến huyện lỵ, Văn đưa ba người bị thương
vào trạm xá. Mọi người còn lại tản ra dọc theo hai bên đường nấu cơm.
Tới giờ ăn, Quân cho cởi trói một bên tay
hai tên địch. Tay còn lại vẫn ghịt chặt sau
lưng, để phòng chúng bỏ chạy. Chúng cũng được ăn như mọi người khác, không có
gì phân biệt. Ăn xong, họ trói hai tên tù binh như cũ, chờ Văn làm việc với ban
chỉ huy bộ đội địa phương xong là bàn giao tất cả cho quân đội bạn xử lý.
Huy cuộn một điếu thuốc, ngồi bệt xuống
đất, tựa lưng vào một gốc me, phì phèo nhả khói. Tên trẻ tuổi lúc nãy đã nói
chuyện với Huy nhìn anh hút thuốc với vẻ thèm thuồng. Tên kia vẫn cúi đầu lầm
lì. Trên đường đi, Huy cũng đã mấy lần gợi chuyện, nhưng hắn chỉ lắc lắc, gật
gật, không chịu hé răng. Huy hỏi tên trẻ tuổi:
- Hút thuốc
không?
- Dạ, xin cho
tôi hút với.
Huy cuộn cho mỗi tên một điếu, rồi gắn lên
môi chúng. Tên già nhìn anh gật đầu tỏ ý cám ơn. Huy mỉm cười hỏi hắn:
- Lần này về rồi, có chạy theo giặc nữa không, ông
già?
- Không đâu. Tôi muốn về với vợ con lâu rồi – Hắn đáp,
đôi mắt buồn buồn. Có lẽ hắn nhớ tới một
căn nhà nào đó xa xôi, nơi có người vợ và lũ con đang chờ mong hắn.
Huy trầm ngâm nhìn cả hai. Trông họ không
có vẻ gì tàn ác đáng sợ. Cứ như vẻ ngoài và thái độ của hai tên này, thì thật
không tài nào hiểu được tại sao lại có những tên lính Pol Pot dã man, khát máu,
giết người như ngoé. Có lẽ khi đã bị cuốn vào trong cuộc, những hành vi tàn bạo
đã dần dần trở thành quen thuộc, thành phản xạ tự nhiên. Người lính vốn thường
là mù quáng. Họ như là bọn người máy chỉ hành động theo mệnh lệnh cấp trên. Nếu
cấp trên của họ là loại tàn bạo điên cuồng, thì làm sao họ không điên cuồng, tàn
bạo!
Còn cái gì khác hơn, đúng hơn để giải
thích cho tất cả những gì đã xảy ra. Cho những đống xương người trưng bày trong
các nhà kính, tỉnh lỵ nào cũng có. Cho hàng triệu người đã bị bắn, bị đập đầu
bằng cuốc xẻng, bị cứa cổ bằng sóng lá thốt nốt đầy gai nhọn, bị hất xác vào
những hố chôn tập thể rải rác trên khắp những bìa rừng, những cánh đồng hoang?…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét