J.D. Salinger
Jerome David Salinger (sinh ngày 1-1-1919), nhà văn Mỹ, tác phẩm nổi tiếng nhất: Bắt trẻ đồng xanh (The Catcher in the Rye). Cho Esmé-với tình yêu và nỗi khốn cùng (For Esmé – with Love and Squalor) là một trong những truyện ngắn được yêu thích nhất của ông.
Gần đây, qua hàng không bưu tín, tôi nhận được
thư mời dự một lễ cưới sẽ tổ chức ở Anh vào ngày 18/4. Có vẻ như đây là một lễ
cưới mà hẳn tôi phải tốn kém khá nhiều để đến dự, và khi thư mời đến, tôi nghĩ
rằng có thể mình sẽ lên đường ra hải ngoại bằng máy bay, với những khoản chi
phí cắt cổ. Tuy nhiên, từ hôm đó tôi đã thảo luận vấn đề khá nhiều với vợ tôi,
một người phụ nữ đặc biệt điềm tĩnh, và chúng tôi quyết định phủ quyết nó, vì
một điều - tôi đã quên khuấy mất rằng mẹ vợ tôi đang mong đến ngày được tới ở
với chúng tôi khoảng hai tuần vào tháng Tư. Tôi thật sự rất ít có dịp gặp Mẹ
Grencher, và bà cũng chả trẻ ra được chút nào. Bà năm mươi tám tuổi. (Như bà là
kẻ đầu tiên thừa nhận).
Tuy thế,
dù có ở đâu chăng nữa, tôi cũng cho rằng tôi không phải là loại người
thậm chí không buồn nhấc một ngón tay để ngăn chận một buổi lễ cưới khỏi sự tẻ
nhạt. Thế nên, tôi đã viết đôi điều hé lộ về cô dâu vì tôi biết cô ấy cách đây
gần sáu năm. Nếu những ghi chép của tôi có thể khiến cho chú rể, người tôi chưa
từng gặp bao giờ, bị khó chịu dăm ba phút, thì lại càng tốt lắm. Ở đây, chả ai
có mục đích làm hài lòng nhau cả. Mà thật sự là để khai tâm, để chỉ dẫn.
Vào tháng 4 năm
1944, tôi nằm trong số 60 người Mỹ tham gia một khoá đào tạo đặc biệt của cơ
quan mật vụ Anh ở Devon, Anh Quốc. Và khi nhìn lại, với tôi, dường như hồi ấy
cả 60 người chúng tôi đều khá lạ đời. Tất cả đều thuộc loại nghiện viết thư.
Ngoài các vấn đề về phận sự, việc trò chuyện giữa chúng tôi thường chỉ là để
hỏi một ai đó xem anh ta có còn chút mực viết nào chưa dùng đến hay không.
Những khi không dự lớp và không viết thư, mỗi người chúng tôi có những cách
thức riêng để giết thời gian. Riêng tôi, tôi đi lang thang khắp vùng trong
những ngày trời đẹp, và vào những ngày mưa gió, tôi thường tìm một nơi khô ráo
để ngồi đọc sách, thường là kế bên một bàn ping-pong.
Khoá học kéo dài ba tuần lễ, kết thúc vào một ngày thứ Bảy mưa dầm. Vào bảy giờ tối hôm đó, cả nhóm chúng tôi sẽ lên tàu tới Luân Đôn, ở đó,
theo lời đồn, chúng tôi sẽ được bổ nhiệm về các sư đoàn bộ binh và không vận,
tập dượt để chuẩn bị cho những cuộc đổ bộ vào Ngày D. Khoảng ba giờ chiều, tôi nhét mọi thứ tài sản
của mình vào cái ba lô, kể cả một cái túi vải đựng mặt nạ phòng chống hơi độc
chứa đầy những quyển sách mà tôi đã mua ở Phía bên kia. (Bản thân cái mặt nạ đã
bị tôi vất qua một ô cửa sổ của con tàu Mauretania trước đó vài tuần, với nhận
thức rõ ràng rằng nếu như kẻ thù có dùng hơi độc đi chăng nữa, tôi cũng chả bao
giờ đeo cái món chết tiệt ấy lên kịp lúc.)
Tôi nhớ tôi đã đứng cạnh cánh cửa sổ ở cuối doanh trại rất lâu, nhìn
ra màn mưa ảm đạm, ngón tay trỏ ngứa
ngáy một cách mơ hồ khó nhận ra. Tôi có thể nghe thấy ở sau lưng mình tiếng
nhiều cây bút chạy sột soạt trên những tờ giấy viết thư. Rồi đột ngột, không có một ý định gì
đặc biệt trong đầu, tôi rời cửa sổ, khoác vào người chiếc áo mưa, chiếc khăn
len quàng cổ, đôi ủng cao su đi mưa, đôi
bao tay bằng dạ và cái mũ vải hải ngoại
(mà bạn tôi thường bảo rằng tôi hay đội theo kiểu của riêng tôi, hơi trùm xuống
đôi tai chút ít.) Rồi, sau khi chỉnh lại cái đồng hồ đeo tay của tôi theo đồng
hồ trong nhà vệ sinh, tôi đi xuống ngọn đồi dài đá sỏi vào thị trấn,
không thèm đếm xỉa đến những tia chớp giật loang loáng phủ xung quanh.
Ở trung tâm thị
trấn, có lẽ cũng là nơi ẩm ướt nhất trong vùng, tôi dừng lại trước một nhà thờ
để đọc một tấm bảng thông báo, chủ yếu là vì những con số viết bằng phấn trắng
trên nền đen đã thu hút sự chú ý của tôi, nhưng cũng có phần vì sau ba năm
trong quân ngũ, tôi đã trở nên nghiện cái thú đọc các tấm bảng thông báo. Tấm
bảng ghi rằng vào lúc ba giờ rưỡi sẽ có một cuộc thực tập hát đồng ca thiếu
nhi. Tôi nhìn đồng hồ đeo tay, rồi lại nhìn lên bảng. Trên đó có dán một tấm
giấy ghi tên của các em thiếu nhi dự cuộc thực tập này. Tôi đứng trong mưa, đọc
hết tất cả những cái tên, rồi đi vào nhà thờ.
Trong nhà thờ có
khoảng mươi người lớn. Tôi đi qua họ, rồi ngồi xuống ở hàng ghế đầu. Trên chiếc
bục cao có ba hàng ghế với khoảng hai mươi đứa bé, phần đông là bé gái trong
lứa tuổi từ bảy đến mười ba đang ngồi. Ngay lúc đó, cô giáo dạy đồng ca của
chúng, một phụ nữ đẫy đà trong bộ váy bằng vải tuýt, yêu cầu chúng há miệng to
hơn khi hát. Có ai đã từng nghe một chú chim non dám hót khúc nhạc líu lo của
nó mà trước hết không há mỏ ra cho thật to, thật to, thật to không nào? – Cô ta
hỏi. Chắc chắn là không có ai đã từng nghe. Cô ta tiếp tục nói rằng cô ta muốn
tất cả mọi học viên phải tập trung vào ý nghĩa của ca từ, chứ không phải chỉ
hát như những con vẹt ngốc nghếch.
Rồi cô ta thổi
vào chiếc sáo bắt giọng một nốt nhạc, và tất cả các em bé, như những vận động
viên cử tạ chưa đủ tuổi, cùng giơ cao những quyển sách ký âm.
Chúng hát không
có nhạc đệm - hay nói chính xác hơn, trong trường hợp này, không có một sự can
thiệp nào. Một vài đứa nhỏ nhất kéo lê nhịp một tí, nhưng theo một cách chỉ có
mẹ của nhà soạn nhạc mới có thể nhận ra thiếu sót. Tôi chưa từng được nghe
thánh ca, nhưng tôi vẫn hy vọng đây là một bài thánh ca với khoảng hơn một chục
câu thơ. Vừa lắng nghe, tôi vừa nhìn lướt qua gương mặt của từng em bé, tôi
nhìn chăm chú hơn một bé gái ngồi gần tôi nhất, ở chiếc ghế cuối của hàng ghế
trên cùng. Cô bé trạc mười ba tuổi, có một mái tóc thẳng mượt màu vàng pha xám
tro dài tới dái tai, một vầng trán thanh tú và đôi mắt xanh thật đẹp. Giọng hát
của cô bé vút lên khỏi giọng của những em bé khác không chỉ vì cô bé ngồi gần
chỗ tôi nhất. Nó có một cử giọng cao hơn hết, ngọt ngào êm ái hơn hết, và tự
động trở thành giọng hát dẫn đầu ban đồng ca. Tuy nhiên, cô bé gái dường như
chán ngán với khả năng ca hát của mình, hay có lẽ chỉ là chán ngán cái thời
gian và không gian lúc ấy. Hai lần, giữa những câu hát, tôi bắt gặp cô bé ngáp
dài. Ðó là một cái ngáp kiểu cách của một mệnh phụ phu nhân, một cái ngáp kín
đáo không để hở đôi môi, nhưng bạn không thể không nhận thấy; vì hai cánh mũi
của cô phập phồng.
Giờ tập hát
thánh ca chấm dứt. Người giáo viên bắt đầu nhận xét lê thê về những cô bé cậu
bé hay động đậy đôi chân và lép nhép đôi môi trong khi vị mục sư đang thuyết giáo.
Tôi đoán là phần tập hát của buổi tổng dượt đã hết, và trước khi giọng nói chói
tai của cô giáo viên kịp làm phai nhoà dư âm tiếng hát của đàn em nhỏ, tôi đứng
lên rời khỏi nhà thờ.
Trời mưa thậm
chí còn nặng hạt hơn khi nãy. Tôi đi xuôi xuống phố và nhìn qua cửa sổ phòng
giải trí của hội Hồng Thập tự. Những người lính đứng thành từng nhóm hai, ba
người ở quầy cà phê, và dù qua lớp kính, tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng quả
bóng bàn nảy trong phòng. Tôi băng qua đường, bước vào một quán trà vắng tanh
vắng ngắt không có ai ngoài một phụ nữ phục vụ tuổi trạc trung niên trông có vẻ
như thể bà ta thích có một người khách với một chiếc áo mưa khô ráo hơn. Tôi
máng chiếc áo mưa lên giá treo, một cách nhã nhặn hết mức trong phạm vi có thể,
rồi ngồi vào một cái bàn, yêu cầu trà cùng một chiếc bánh mì nướng. Đó là lần
đầu tiên trong suốt cả ngày tôi mở miệng với một người khác. Rồi tôi lục lọi
tất cả mọi cái túi, kể cả túi áo mưa, và cuối cùng tìm ra hai lá thư nhòa nhạt
để đọc lại. Một lá của vợ tôi, báo cho tôi biết sự phục vụ ở tiệm Schaft Phố
Tám mươi tám đã sa sút ra sao. Một lá của mẹ vợ tôi, yêu cầu tôi gửi cho bà một
ít chỉ len ngay khi tôi có dịp ra khỏi “trại”.
Trong khi tôi
còn chưa uống hết tách trà thứ nhất, cô bé gái tôi đã nhìn và nghe hát trong
dàn đồng ca bước vào quán. Mái tóc cô bé ướt đẫm, để lộ ra hai vành tai. Cô bé
đi cùng một đứa bé trai nhỏ xíu, chắc chắn là em của cô ta. Với hai ngón tay,
cô bé nhấc chiếc mũ ra khỏi đầu thằng bé, như thể chiếc mũ là một khí cụ trong
phòng thí nghiệm. Tháp tùng cả hai là một người phụ nữ dễ nhìn, đội một chiếc
mũ mềm vành rũ, mà tôi đoán là cô bảo mẫu của chúng. Cô bé vừa đi vừa cởi chiếc
áo khoác ra, rồi chọn một chiếc bàn, một chỗ thật khá, theo ý tôi, vì nó nằm
ngay phía trước mặt tôi, cách chỉ chừng bảy tám bước chân. Cô bé và người bảo
mẫu ngồi xuống. Chú nhóc con, chừng năm tuổi, chưa muốn ngồi vào vội. Nó lui
tới lăng xăng một cách có phương pháp, chọc tức người bảo mẫu bằng cách vừa kéo
tới kéo lui chiếc ghế của mình, vừa nhìn vào mặt bà ta. Người bảo mẫu hai ba
lần yêu cầu nó ngồi xuống và hãy thôi làm trò khỉ bằng một giọng khẽ khàng,
nhưng chỉ đến khi chị của nó lên tiếng, nó mới chịu ngồi xuống, tựa cái lưng bé
xíu của nó vào lưng ghế. Ngay lập tức, nó vớ lấy tấm khăn ăn đặt lên trên đầu.
Người chị lấy chiếc khăn xuống, mở ra và trải lên lòng nó.
Vừa khi trà được
mang tới, cô bé bắt gặp tôi đang nhìn về phía của mình. Cô bé nhìn lại tôi, rồi
đột ngột gửi tới tôi một nụ cười mỉm e dè. Nụ cười toả sáng một cách lạ lùng,
tương tự những nụ cười mỉm thỉnh thoảng ta có thể gặp trong đời. Tôi mỉm cười
đáp lại, kém tươi tắn hơn nhiều, giữ cho môi trên hạ thấp để che đi một vết
trám răng tạm thời kiểu nhà binh đen thui giữa hai chiếc răng cửa. Ðiều kế tiếp
tôi biết, là cô bé đứng bên chiếc bàn của tôi với một tư thế thật đĩnh đạc. Cô
bé mặc một chiếc váy sọc ô vuông kiểu Campell, tôi cho là vậy. Hình như với tôi
đó là một chiếc váy thật tuyệt diệu cho một cô bé mặc trong một ngày mưa quá
đỗi mưa.
"Cháu nghĩ
là người Mỹ không ưa trà", cô bé nói.
Đó không phải là
nhận xét của một người làm ra vẻ tinh khôn mà là của một người yêu chân lý hoặc
một người thích môn thống kê. Tôi đáp rằng có một số người trong chúng tôi chỉ
toàn uống trà không thôi. Rồi tôi hỏi cô bé xem cô có thể ngồi với tôi không.
"Cám
ơn," cô bé nói, "Nhưng có lẽ chỉ một chút xíu thôi."
Tôi đứng lên kéo
một chiếc ghế ở phía đối diện cho cô bé. Cô ngồi xuống, trên một phần tư trước
của chiếc ghế, giữ cho lưng thật thẳng và thật đẹp một cách dễ dàng. Tôi trở về
chỗ chiếc ghế của mình, hầu như hơi vội vã. Tuy nhiên, sau khi ngồi xuống, tôi
không nghĩ ra được chuyện gì để nói. Tôi lại mỉm cười, vẫn cố che giấu cái vết
trám răng đen thui. Rồi tôi nhận xét rằng đi ra ngoài trong một ngày như hôm
nay thật là kinh khủng.
"Vâng, đúng
là như vậy", người khách của tôi đáp bằng một giọng trong trẻo, rõ
là giọng của một kẻ ghét cay ghét đắng chuyện phiếm. Cô bé đặt những ngón
tay lên cạnh bàn, như một người đang trong buổi họp, rồi gần như ngay lập tức
nắm hai bàn tay lại. Cô đeo một chiếc đồng hồ quân sự, kiểu đồng hồ của một
thủy quân. Mặt đồng hồ quá to lớn so với chiếc cổ tay thanh mảnh của cô.
"Chú đã ngồi xem tập hát trong nhà thờ", cô bé nói với giọng khẳng
định, "cháu đã nhìn thấy chú."
Tôi đáp rằng
đúng thế, rằng tôi đã nghe thấy giọng ca của cô tách biệt khỏi giọng ca của
những em bé khác. Rằng tôi nghĩ cô có một giọng hát rất tuyệt vời.
Cô bé gật đầu.
"Cháu biết. Cháu sẽ trở thành một ca sĩ chuyên nghiệp."
"Thật thế
à? Một ca sĩ opera?"
"Ồ không.
Cháu sẽ hát nhạc jazz trên đài phát thanh và sẽ kiếm được khối tiền. Rồi khi
cháu được ba mươi tuổi, cháu sẽ thôi ca hát và tới sống trong một trang trại ở Ohio." Cô bé chà
lòng bàn tay lên đỉnh đầu đẫm ướt của mình. "Chú có biết Ohio không?” Cô bé hỏi.
Tôi đáp rằng tôi
đã từng đi qua đó trên những chuyến tàu hoả vài lần, nhưng chưa thật sự biết về
nó. Rồi tôi mời cô bé một miếng bánh mì.
"Không, cám
ơn chú." Cô bé nói. "Thật ra, cháu ăn ít như một con chim vậy."
Tôi cắn một mẫu
bánh và nhận định rằng ở quanh Ohio
có một vài vùng khá dữ dằn.
"Cháu biết.
Một người Mỹ cháu gặp đã bảo vậy. Chú là người Mỹ thứ mười một mà cháu
gặp."
Người bảo mẫu
lúc này đang khẩn trương ra dấu cho cô bé quay lại bàn để thôi không làm phiền
tôi nữa. Tuy nhiên, vị khách của tôi bình thản dời chiếc ghế đi khoảng vài chục
phân, bằng cách đó quay lưng lại phía chiếc bàn của mình, chấm dứt mọi sự liên
lạc nào khác nếu có. "Chú đến học tại cái trường dạy mật vụ trên đồi, phải
không chú?" Cô bé hỏi với vẻ thờ ơ.
Cảnh giác với
câu hỏi tiếp theo, tôi đáp rằng tôi đến vùng Devonshire
để nghỉ dưỡng sức.
"Thế
sao," cô bé nói, "Cháu đâu phải mới ra đời ngày hôm qua hở chú."
Tôi đáp rằng tôi
cuộc là cô bé không phải mới sinh hôm qua thật.
"Có vẻ như
chú khá thông minh so với một người Mỹ" Vị khách của tôi nói.
Tôi bảo cô bé
rằng nói một điều như thế thật là lố bịch và hợm hĩnh, nếu suy nghĩ một chút về
ý nghĩa của nó, rằng tôi mong rằng cô bé không phải là người như thế.
Cô bé đỏ mặt.
"Chà, phần lớn những người Mỹ cháu gặp cư xử như thú vật. Họ cứ thụi nhau
miết và xúc phạm tới mọi người. Chú có biết một trong bọn họ đã làm điều gì
không?"
Tôi lắc đầu.
"Một trong
số họ đã quẳng một cái chai đựng rượu whisky rỗng qua cửa sổ nhà cô cháu. May
là cửa sổ mở. Nhưng chú thấy như thế có thật thông minh không?"
Ðiều đó thật
bình thường. Nhưng tôi không nói như thế. Tôi bảo rằng nhiều người lính, trên
khắp thế giới này, sống rất xa quê nhà của họ, và rất ít người trong số họ thật
sự có được những thuận lợi trong đời sống. Tôi bảo rằng rất nhiều người có thể
hiểu ra được điều này.
"Có
thể," vị khách của tôi nói, không chắc chắn lắm. Cô bé lại giơ tay lên
vuốt đầu, cố kéo những sợi tóc mỏng manh xuống để che đôi tai. "Tóc cháu
bị ướt," cô bé nói. "Trông cháu tệ hơn mọi ngày." Cô bé nhìn tôi.
"Cháu có một mái tóc gợn sóng khi nó khô."
"Tôi có thể
thấy, tôi có thể thấy là cháu có mái tóc gợn sóng."
"Không thật
sự xoăn, mà gợn sóng," cô bé nói, "Chú có vợ chưa?"
Tôi đáp là tôi
đã có.
Cô bé gật đầu.
"Chú có rất yêu vợ chú hay không? Hay là cháu quá tọc mạch chuyện riêng
của chú."
Tôi bảo là tôi
sẽ bảo cho cô bé biết khi nào tôi cảm thấy như thế.
Cô bé duỗi hai
bàn tay và cổ tay ra xa hơn trên mặt bàn, và tôi nhớ lúc ấy tôi đã muốn nói một
điều gì đó về cái đồng hồ có mặt khổng lồ mà cô bé đang đeo - có lẽ là một lời
đề nghị cô bé thử đeo nó vòng quanh eo của mình.
"Thường thì
cháu không ưa giao du lắm đâu", cô bé nói, và nhìn tôi như để xem tôi có
nắm được ý nghĩa của câu nói không. Tôi không tỏ vẻ gì khác lạ. "Cháu chỉ
tới với chú vì cháu nghĩ chú trông cực kỳ cô độc. Chú có một khuôn mặt cực kỳ
nhạy cảm."
Tôi đáp rằng cô
bé nói đúng, rằng tôi đã cảm thấy cô đơn quá đỗi, và rằng tôi đã rất mừng vì cô
tới.
"Cháu đang
tự tập luyện để có thể cảm thông nhiều hơn. Cô của cháu nói cháu là một người
cực kỳ lãnh đạm," cô bé nói, và lại sờ tay lên đầu. "Cháu sống với cô
cháu. Cô là một người cực kỳ tốt bụng. Từ khi mẹ cháu mất, cô cháu đã làm mọi
việc trong khả năng để cháu và Charles được thoải mái."
"Tôi rất
mừng vì điều đó."
"Mẹ cháu là
một người cực kỳ thông minh. Rất nhạy cảm, theo nhiều cách". Cô bé nhìn
tôi với một vẻ tinh nhanh tươi tắn. "Chú có thấy là cháu lãnh đạm
không?"
Tôi bảo rằng
tuyệt đối không phải vậy, mà rất trái lại là đằng khác. Tôi nói cho cô bé biết tên
tôi và hỏi tên của cô.
Cô bé ngần ngừ.
"Tên của cháu là Esmé. Cháu không nghĩ là cháu sẽ cho chú biết đầy đủ họ
tên vào lúc này. Cháu có một tước vị và chú có thể sẽ bị ấn tượng vì các tước
hiệu. Những người Mỹ thường là vậy, chú biết mà".
Tôi đáp rằng tôi
không nghĩ là tôi sẽ như thế, nhưng có thể tạm thời không nói ra tước hiệu cũng
là một ý hay.
Ngay khi ấy, tôi
cảm thấy hơi thở ấm áp của một ai đó phà lên sau gáy của tôi. Tôi quay lại và
suýt chút nữa đã mũi chạm mũi với chú nhóc nhỏ xíu em của Esmé. Không thèm đếm
xỉa đến tôi, nó nói với người chị: "Cô Megley bảo chị phải về bàn và uống
hết trà của mình đi!" Nói xong, nó lui về phía chiếc ghế giữa tôi và chị
nó, ở phía tay phải của tôi. Tôi nhìn nó với cảm giác thích thú. Trông nó thật
dễ thương với chiếc quần soóc Shetland màu nâu, chiếc áo nịt len màu xanh biển,
chiếc áo sơ mi trắng và sợi dây cà-vạt sọc vằn. Nó nhìn lại tôi với đôi mắt
xanh lá nhạt to tướng.
"Tại sao những người trong phim lại nghiêng đầu khi
hôn?" Nó hỏi.
"Nghiêng
đầu khi hôn?" Tôi nói. Ðó chính là vấn đề đã làm tôi nhức đầu thắc mắc hồi
còn bé. Tôi bảo rằng tôi đoán là bởi vì chiếc mũi của các diễn viên quá to để
có thể hôn lên trán nhau.
"Nó tên là
Charles," Esmé nói. "Nó cực kỳ thông minh ở lứa tuổi của nó."
"Cậu bé có
một đôi mắt thật là xanh. Ðúng không, Charles?"
Charles đáp lại
lời tôi bằng một cái nhìn nghi ngại mà câu hỏi của tôi xứng đáng nhận được, rồi
tuột về phía trước trên chiếc ghế cho tới khi cả thân hình nó khuất sau chiếc
bàn ngoại trừ cái đầu. "Chúng có màu cam," nó nói bằng một giọng mất
tự nhiên, chỉ lên trần nhà. Rồi nó kéo một góc khăn bàn lên che lấy mặt.
"Ðôi lúc nó
thật thông minh, đôi lúc lại thật ngốc nghếch," Esmé nói. "Charles,
ngồi thẳng lên nào!"
Charles vẫn ngồi
y nguyên như trước. Dường như nó đang bận duy trì hơi thở.
"Nó rất nhớ
cha của chúng cháu. Cha cháu bị giết chết ở Bắc Phi."
Tôi bày tỏ lòng
thương tiếc khi nghe điều đó.
Esmé gật đầu.
"Cha cháu rất thương nó.” Cô bé trầm ngâm nhá nhá lớp da ở ngón tay cái. “Nó
trông giống mẹ cháu lắm, còn cháu thì lại giống cha." Cô tiếp tục nhá lớp
da. “Mẹ cháu là một người rất nồng nhiệt. Mẹ cháu hướng ngoại. Còn cha cháu lại
hướng nội. Dù vậy, họ rất hòa hợp nhau, ở bề ngoài. Là người rất bộc trực, Cha
thật sự cần một người bạn đời trí thức hơn Mẹ. Cha cháu là một người cực kỳ tài
ba.”
Tôi chờ đợi một
cách chú tâm để nghe thêm thông tin về chuyện đó, nhưng không có. Tôi nhìn
xuống Charles, lúc này nó đang tựa một bên mặt lên chiếc ghế. Khi nhận thấy tôi
đang nhìn nó, nó nhắm mắt lại, làm ra vẻ buồn ngủ, làm ra vẻ một thiên thần,
rồi thè lưỡi ra.
"Thôi
đi," Esmé nói, rõ ràng không lạ lẫm chút nào với các trò quậy của đứa em
trai. "Nó trông thấy một người Mỹ làm như thế trong một đám xếp hàng mua
cá và khoai, và bây giờ mỗi khi nó chán nó lại làm vậy đó. Ngưng ngay nhé, nếu
không chị sẽ mang em lại cho cô Megley."
Charles mở đôi
mắt to của nó ra, như để ra dấu rằng nó nghe thấy lời đe doạ của bà chị, rồi
lại nhắm mắt, tiếp tục tựa một bên mặt vào lưng ghế.
Tôi nhận xét
rằng có lẽ nó nên giữ lại cái vẻ mặt đó – nghĩa là cái kiểu bĩu môi đó – cho
tới lúc nó bắt đầu sử dụng tước hiệu của nó thường xuyên. Nghĩa là nếu cả nó
cũng có một tước hiệu.
Esmé nhìn tôi
với một cái nhìn kéo dài, lãnh đạm. “Chú có một đầu óc khá hài hước đấy nhỉ?”
Cô nói, có vẻ bâng khuâng. “Cha bảo cháu không có chút đầu óc hài hước nào hết.
Cha bảo cháu chưa được trang bị để tiếp cận với cuộc đời vì cháu không có đầu
óc hài hước.”
Tôi vừa ngắm
Esmé vừa đốt một điếu thuốc rồi bảo rằng tôi không nghĩ là một đầu óc hài hước
lại có công dụng gì trong một tình huống bức thiết thật sự.
“Cha cháu bảo là
có.”
Đây là một phát
ngôn của niềm tin, không phải là một sự phản đối, và tôi nhanh chóng chuyển đề
tài. Tôi gật đầu và nói rằng có lẽ cha cô bé đã nhìn xa trông rộng, còn tôi thì
chỉ có tầm nhìn thiển cận (bất kể điều đó có nghĩa gì).
"Charles
nhớ cha chúng cháu ghê lắm," Esmé nói, sau một lúc, "Ông là một người
đáng yêu lắm. Ông cũng cực kỳ đẹp trai nữa. Vẻ ngoài của một người không phải
là chuyện lớn, nhưng ông đẹp trai. Ông có một đôi mắt sắc sảo kinh khủng"
Tôi gật đầu. Tôi
bảo tôi có thể hình dung ra cha của cô bé là một người đặc biệt thế nào.
"Ồ, vâng,
đúng là như vậy." Esmé nói.
Ngay lúc ấy, tôi
cảm thấy một cú đấm nhẹ lên cánh tay tôi từ phía Charles. Tôi quay sang chú bé.
Giờ đây, nó ngồi với một tư thế khá đàng hoàng trên ghế, ngoại trừ việc một bên
đầu gối của nó co lại. "Bức tường này nói với bức tường kia cái gì?"
Nó the thé hỏi. "Ðó là một câu đố."
Tôi xoay cặp mắt
ra vẻ suy tư hướng lên trần nhà, lớn tiếng lặp lại câu đố. Rồi tôi nhìn Charles
với vẻ ngạc nhiên bối rối và bảo rằng tôi chịu không đoán được.
"Gặp cậu ở
góc nhà." Nó hét to.
Lời giải đáp có
tác dụng lớn nhất với chính Charles. Nó khoái chí đến mức cười sặc sụa. Thật
sự, Esmé phải đi vòng sang và vỗ vào lưng nó như để chữa một cơn ho. “Thôi đi
nhé,” cô bé nói rồi trở lại chỗ ngồi. “Nó cứ đố câu đó với mọi người nó gặp và
mỗi lần như thế lại bị sặc vì cười. Nó thường bị chảy nước mũi khi cười lớn.
Bây giờ thì ngưng đi nhé.”
“Đây là một
trong những câu đố hay nhất mà tôi từng nghe.” Tôi đáp, quan sát Charles. Nó
đang dần bình thản lại. Để đáp lại lời khen này, nó cố tình chùi người thấp hơn
trên chiếc ghế và lại lấy một góc khăn bàn che đi gương mặt chỉ để lộ ra đôi
mắt. Rồi nó nhìn tôi với đôi mắt mở to, lóng lánh niềm vui và sự tự hào của một
kẻ biết vài câu đố cực kỳ rắc rối.
"Cháu có
thể hỏi chú từng làm việc gì trước khi vào quân đội không?" Esmé hỏi tôi.
Tôi đáp rằng tôi
chưa từng làm việc cho ai bao giờ, rằng tôi chỉ mới tốt nghiệp đại học được một
năm nhưng tôi thích tự xem mình là một nhà văn viết truyện ngắn chuyên nghiệp.
Cô bé gật đầu
một cách lịch thiệp rồi hỏi, "Ðã xuất bản chưa ạ?"
Ðó là một câu
hỏi quen thuộc nhưng luôn luôn gây tự ái, và là một câu hỏi mà tôi không thể
trả lời ngay tắp lự được bao giờ. Tôi giải thích cho cô bé nghe đa số những
biên tập viên ở Mỹ đã kết bè kết phái ra sao.
"Cha cháu
viết tuyệt lắm," Esmé cắt ngang lời tôi. "Cháu sẽ để dành những lá
thư của cha cho các con cháu về sau."
Tôi bảo đó là
một ý kiến hay. Tôi lại nhìn vào chiếc đồng hồ có mặt khổng lồ như một máy đo
giờ quân sự. Tôi hỏi rằng có phải trước kia nó là của cha cô bé.
Cô bé nghiêm
nghị nhìn xuống chiếc đồng hồ. "Vâng ạ." Cô nói. "Cha cho cháu
ngay trước lúc cháu và Charles đi di tản." Cô rụt tay khỏi bàn, nói một
cách ngượng ngùng, "Cháu sẽ cực kỳ hãnh diện nếu như một ngày nào đó chú
viết một truyện ngắn tặng riêng cho cháu. Cháu là một độc giả mê đọc lắm."
Tôi bảo cô bé
rằng tôi sẽ viết nếu như có thể. Rằng tôi viết cũng không nhiều nhỏi gì cho
lắm.
"Không nhất
thiết phải viết thật nhiều đâu chú ạ! Chỉ cần nó đừng quá trẻ con và ngốc
nghếch." Cô bé đáp. "Cháu thích những truyện nói về nỗi khốn
cùng."
"Về cái
gì?" Tôi hỏi, nghiêng người về phía trước.
"Về sự khốn
cùng, cháu cực kỳ quan tâm đến sự khốn cùng."
Tôi định đề nghị
cô bé nói cặn kẽ chi tiết hơn, nhưng tôi cảm thấy Charles đang véo mạnh vào
cánh tay tôi. Tôi quay sang chú bé. Nó đang đứng ngay bên cạnh tôi. "Bức
tường này nói với bức tường kia cái gì?" Nó hỏi, một cách thân mật.
"Em đã hỏi
câu này rồi," Esmé nói. "Giờ thì thôi đi."
Charles phớt lờ
bà chị, dẫm một chân lên chân tôi, nó lặp lại câu đố. Tôi nhận thấy cà-vạt của
nó nằm xiên xẹo nên đưa tay chỉnh lại cho ngay ngắn, rồi nhìn vào mắt nó, tôi
nói, "Gặp tôi ở góc nhà."
Ngay khoảnh khắc
ấy, tôi ước gì tôi đã không trả lời câu đố. Miệng của Charles há hốc ra. Tôi có
cảm giác giống như tôi vừa đánh vào miệng nó. Nó bước ra khỏi chân tôi, và với
niềm kiêu hãnh còn nóng bỏng, nó bỏ đi về bàn của nó, không thèm ngoái đầu nhìn
lại.
"Nó nổi
giận rồi," Esmé nói, "Tính cách nó rất hung hăng. Mẹ cháu có xu hướng
làm hư nó. Cha cháu là người duy nhất không làm hư nó."
Tôi nhìn sang
Charles lúc này đã ngồi xuống và bắt đầu uống trà, bưng cái tách với cả hai tay
của nó. Tôi hy vọng là nó sẽ quay lại, nhưng nó không quay lại. Esmé đứng lên.
"Il faut que je parle aussi," (Cháu phải chia tay với chú), cô bé
nói, với một tiếng thở dài. "Chú có biết tiếng Pháp không?"
Tôi đứng lên
khỏi ghế, với một cảm giác vừa tiếc nuối vừa bối rối. Esmé bắt tay tôi; bàn tay
cô bé, như tôi đoán, là một bàn tay bồn chồn, ẩm ướt. Tôi bảo với cô bé, bằng
tiếng Anh, rằng tôi rất sung sướng được quen biết với cô.
Cô bé gật đầu.
"Cháu nghĩ là chú sẽ vui, cháu nói khá nhiều chuyện so với lứa tuổi của
cháu. Cô bé lại đưa tay lên kiểm nghiệm mái tóc."Cháu rất tiếc về mái tóc
của cháu,"cô bé nói. "Chắc trông cháu xấu xí kinh khủng."
"Không phải
vậy đâu. Thật tình, tôi cho là đã có một số chùm tóc bắt đầu gợn sóng trở lại
rồi."
Cô bé lại sờ
nhanh lên mái tóc. "Chú có nghĩ là chú sẽ quay trở lại đây vào một ngày
thật gần không?" Cô bé hỏi. "Chúng cháu tới đây vào mỗi thứ Bảy, sau
giờ tập hát."
Tôi đáp rằng tôi
không mong muốn gì hơn thế, nhưng không may là tôi chắc chắn sẽ không thể nào
tới nữa.
"Nói cách
khác là chú không thể bàn luận về những cuộc hành quân?" Esmé nói. Cô
không hề rời khỏi bàn. Thật ra, cô đặt chéo một bàn chân lên chân kia, và nhìn
xuống, chỉnh lại những ngón chân trong giày. Đó là một cử động nho nhỏ rất ưa
nhìn, vì cô mang đôi tất trắng và bàn chân cùng mắt cá chân của cô thật xinh
xắn. Rồi ngẩng lên nhìn tôi một cách đột ngột. "Chú có muốn cháu viết thư
cho chú không?" Cô bé hỏi, với một chút ửng hồng trên đôi má. “Cháu viết
những lá thư cực kỳ trôi chảy cho một người mà…”
"Tôi rất
thích." Tôi rút cây bút chì và một mảnh giấy ra, viết tên, cấp bậc và hòm
thư của tôi.
"Cháu sẽ
viết cho chú trước, để chú không phải bận tâm. Chào chú." Cô nói, cất mảnh
giấy vào túi áo rồi quay lại bàn của mình.
Tôi gọi thêm một
ấm trà và ngồi ngắm hai đứa bé cho đến khi chúng và cô Migley đứng lên ra về.
Charles đi đầu, khập khiễng lê đôi chân như một người chân thấp chân cao. Nó
không thèm nhìn tôi. Cô Wigley đi kế tiếp, rồi tới Esmé, cô bé vẫy tay chào
tôi. Tôi vẫy chào đáp lại, hơi nhổm người trên ghế. Ðó là một khoảnh khắc xúc
động lạ lùng đối với tôi.
Không đầy một
phút sau, Esmé quay lại quán, kéo theo Charles ở phía sau. “Charles muốn hôn
tạm biệt chú,” cô nói.
Tôi đặt ngay ly
xuống và bảo rằng điều đó rất tuyệt, nhưng cô bé có chắc không?
“Vâng,” cô đáp
khá dứt khoát. Cô buông ống tay áo của Charles rồi đẩy mạnh nó về phía tôi. Nó
bước tới, gương mặt tím bầm, và hôn tôi một cái thật kêu ngay phía sau tai
phải. Sau thử thách này, nó đi thẳng tới cửa với vẻ phớt lờ, nhưng tôi nắm lấy
tay áo nó giữ chặt và hỏi nó, “Bức tường này nói với bức tường kia cái gì?”
Mặt nó sáng lên.
“Gặp cậu ở góc nhà!” Nó kêu lên và chạy ào ra khỏi phòng, có lẽ lại phát cuồng
lên.
Esmé lại đứng
tréo chân. “Chú có chắc là chú không quên viết câu chuyện đó cho cháu chứ?” Cô
hỏi. “Không nhất thiết phải dành riêng nó cho cháu. Nó có thể…”
Tôi bảo rằng
tuyệt đối không có chuyện tôi quên. Rằng tôi chưa bao giờ viết một truyện ngắn
cho bất kỳ ai, nhưng dường như đã đến lúc phải làm điều đó rồi.
Cô bé gật đầu.
“Hãy viết một câu chuyện cực kỳ khốn quẫn và cảm động nhé chú,” cô đề nghị.
“Chú có quen thuộc với nỗi khốn quẫn không?”
Tôi bảo không
hẳn thế nhưng tôi đang trở nên quen thuộc hơn với nó, dưới hình thức này hay
hình thức khác, trong mọi lúc, rằng tôi sẽ làm hết hết sức để đáp ứng những
mong muốn của cô. Chúng tôi bắt tay.
“Có đáng tiếc
không nếu chúng ta đã không gặp nhau ở những hoàn cảnh tốt hơn?” Cô bé hỏi.
Tôi đáp rằng có,
tôi bảo chắc chắn là thế.
“Chào chú,” Esmé
nói. “Cháu mong chú quay về từ cuộc chiến với mọi tính năng còn nguyên vẹn.”
Tôi cám ơn, nói
thêm vài lời với cô, rồi nhìn cô rời khỏi quán. Cô chậm chạp đi ra, trầm ngâm,
tay sờ lên đuôi tóc.
***
Ðây là phần khốn
khổ, hoặc thương tâm, của câu chuyện, trong đó các bối cảnh đã đổi thay. Nhân
vật cũng đổi thay. Tôi vẫn còn đâu đó, nhưng từ đoạn này trở đi, vì một số lý
do, tôi sẽ tự ngụy trang một cách gian xảo đến nỗi ngay cả một độc giả thông minh
nhất cũng sẽ không nhận ra tôi.
Ðó là vào khoảng
mười giờ ba mươi phút đêm ở Gaufurt,
Bavaria, nhiều tuần sau Ngày V-E
. Viên trung sĩ tham mưu X đang ở trong phòng của anh trên tầng hai của một tòa
nhà dân sự trong đó anh và chín người lính Mỹ khác trú đóng từ trước ngày đình
chiến. Anh ngồi trên một chiếc ghế dạ trước một cái bàn viết nhỏ trông rất bừa
bộn, với một quyển tiểu thuyết nước ngoài mở ra trước mặt mà anh đang đọc một
cách rất khó khăn. Rắc rối là ở anh chứ không phải ở cuốn truyện. Dù những
người ở tầng trệt thường vớ được trước tiên những cuốn sách mà ban Dịch vụ Đặc
biệt gửi tới, dường như X thường nhận
được cuốn truyện mà có thể anh sẽ tự mình chọn lấy. Nhưng anh không phải là một
chàng trai trải qua cuộc chiến với tất cả những tính năng còn nguyên vẹn, suốt
hơn một giờ qua anh chỉ đọc được vài ba đoạn, và lúc này anh chỉ đọc được vài
ba câu. Anh đột ngột gấp quyển sách lại, không buồn đánh dấu trang. Anh đưa tay
lên che mắt khỏi ánh sáng nóng rực chói chang của cái bóng đèn để trần đặt trên
bàn.
Anh rút một điếu
thuốc từ gói thuốc đặt trên bàn và châm lửa với những ngón tay đang lẩy bẩy
chạm vào nhau. Anh ngồi lại xuống ghế và hút mà không có cảm giác mùi vị gì.
Anh đã hút hết điếu nọ sang điếu kia suốt nhiều tuần. Những nướu răng của anh
rỉ máu với sức ép nhẹ nhất của đầu lưỡi, và anh ít khi ngưng cử động này lại;
đó là một trò chơi nho nhỏ mà anh tiến hành, đôi khi suốt nhiều giờ. Anh ngồi
hút thuốc và lấy đầu lưỡi ép lên nướu răng một lúc. Rồi đột nhiên, một cách
quen thuộc và như thường lệ, không có một dấu hiệu gì báo trước, anh cảm thấy
tâm trí của mình lạc đi đâu mất, chênh vênh không điểm tựa, như một gói hành lý
không an toàn trên một đường tàu. Anh vội thực hiện một điều mà anh đã làm
trong những tuần qua để lấy lại cân bằng; anh xát mạnh hai bàn tay lên thái
dương mình. Anh giữ chặt tay ở đó một lúc. Tóc anh cần được cắt và quá bẩn. Anh
có gội đầu ba hay bốn lần gì đó trong hai tuần sống trong bệnh viện ở Franfort,
nhưng nó lại bị dơ trong chuyến trở lại Gaufurt trên chiếc xe jeep và con đường
đầy bụi. Hạ sỹ Z, người đã đón anh ở bệnh viện, vẫn còn lái một chiếc xe jeep
kiểu chiến đấu có cái kính chắn gió chạy xuống từ mui xe, dù có đình chiến hay
không đình chiến. Có tới mấy ngàn tân binh ở Đức. Với việc lái chiến xe jeep kiểu
chiến đấu này, hạ sỹ Z hy vọng chứng tỏ được anh ta không phải là một người
trong số họ, rằng anh ta không khi nào là một gã tân binh chó chết nào đó trong
đội quân E.T.O.(*)
Khi đầu óc bớt
choáng váng, X bắt đầu nhìn chằm chặp lên mặt bàn. Ít nhất có hai tá thư và sáu
gói hàng chưa mở, tất cả đều gửi tới cho anh. Anh với tay ra sau đống đó nhặt
lên một cuốn sách dựa vào tường. Đó là một tác phẩm của Goebbels có tựa đề là
“Die Zeit Ohne Beispiel.” Nó thuộc về cô con gái ba mươi tám tuổi chưa chồng của
cái gia đình mà mấy tuần trước đã sống trong ngôi nhà này. Cô ta là một quan
chức cấp thấp trong đảng Phát xít, nhưng cũng đủ cao, theo quy định quân đội,
để lọt vào loại tự động bắt giữ. Chính X đã bắt giữ cô ta. Lúc này, lần thứ ba
kể từ khi anh quay lại từ bệnh viện hôm đó, anh mở cuốn sách của người phụ nữ
đó ra và đọc lời đề tặng ngắn ngủi trên trang để trắng đầu sách. Những từ Đức
nhỏ, chân thành đến tuyệt vọng được viết tay bằng mực như sau: “Thượng đế thân
yêu, cuộc sống là địa ngục”. Không có gì dẫn dắt hay thêm thắt cho nó hết. Lẻ
loi trên trang giấy và trong sự tĩnh lặng muốn bệnh của căn phòng, những từ này
có vẻ như mang tầm vóc của một bản cáo trạng không thể bàn cãi, thậm chí cổ
điển. X nhìn chòng chọc vào trang giấy nhiều phút, cố gắng cưỡng lại nó. Rồi,
với nhiệt tâm hơn hẳn bất kỳ điều gì anh đã làm trong mấy tuần qua, anh cầm lên
một cây bút chì rồi viết bên dưới lời đề tặng, bằng tiếng Anh: “Hỡi những người
cha và những người thầy, tôi tự hỏi ‘Địa ngục là gì?’ Tôi cho rằng nó chính là
nỗi thống khổ của sự không có khả năng thương yêu.” Anh bắt đầu viết tên của
Dostoievski bên dưới lời đề tặng, nhưng nhận thấy – với nỗi sợ hãi chạy dọc
khắp thân người – rằng những gì anh đã viết hầu như hoàn toàn không thể đọc
được. Anh khép quyển sách lại.
Anh nhanh chóng
nhặt lấy một thứ khác trên bàn, một lá thư của anh trai anh ở Albany. Nó đã nằm trên bàn ngay từ trước lúc
anh nhập viện. Anh mở phong bì ra, quyết định sẽ đọc hết lá thư, nhưng chỉ đọc
nửa phần trên của trang thứ nhất. Anh dừng lại ở đoạn: “Bây giờ cuộc chiến
tranh chết tiệt đã kết thúc và có lẽ em sẽ có khá nhiều thời gian ở đó, hãy
nghĩ tới chuyện gửi cho bọn nhóc một cặp lưỡi lê hay những chữ thập ngoặc…” Sau
khi xé lá thư, anh nhìn những mảnh vụn trong giỏ rác. Anh thấy rằng anh đã bỏ
qua một tấm ảnh chụp nhanh gửi kèm theo. Anh có thể nhìn thấy bàn chân của một
người nào đó đang đứng trên một bãi cỏ ở một nơi nào đó.
Anh đặt hai cánh
tay lên bàn rồi tựa đầu lên trên để nghỉ. Anh đau từ đầu tới chân, mọi cõi miền
của cơn đau dường như tương thuộc với nhau. Anh giống như một cây thông Giáng
sinh mà tất cả những bóng đèn, những chùm dây điện của nó đều phải tắt ngóm
ngay cả khi chỉ một bóng đèn có thiếu sót.
Cánh cửa phòng
mở bung ra mà chẳng có một tiếng gõ nào. X ngẩng đầu, quay lại, và trông thấy
hạ sỹ Z đang đứng ở cửa. hạ sỹ Z là người đi chung chiếc jeep và là đồng hành
thường trực của X từ Ngày D, trải qua suốt năm chiến dịch của cuộc chiến. Anh
ta sống ở tầng một và thường lên thăm X khi có một vài tin tức hay lời phàn nàn
cần được xả ra nào đó. Anh ta là một thanh niên hai mươi bốn tuổi to con ăn
ảnh. Trong chiến tranh, một tạp chí quốc gia đã chụp ảnh anh ta ở rừng Hurtgen;
anh ta đứng, hai tay xách hai con gà tây cho lễ Tạ ơn. “Anh đang viết thư hả?”
Anh ta hỏi X. “Lạy Chúa, ở đây ma quái quá.” Anh ta luôn thích bước vào một căn
phòng có đèn sáng trên đầu.
X xoay người
trên ghế, bảo anh ta bước vào trong, và hãy cẩn thận kẻo dẫm lên con chó.
“Cái gì?”
“Con Alvin. Nó nằm ngay dưới
chân cậu đó, Clay. Mở cái bóng đèn chết tiệt trên trần nhà lên giùm nhé?”
Clay tìm ra công
tắc ngọn đèn trên trần, bật lên, rồi băng qua căn phòng nhỏ hẹp, tới ngồi lên
cạnh giường, đối diện với chủ phòng. Mái tóc đỏ gạch vừa mới chải của anh ta
được dấp nước khá nhiều. Một cây lược và một cây bút bi ló ra, một cách quen
thuộc, từ túi áo sơ mi màu ô-liu bên phải. Trên túi áo trái anh ta đeo phù hiệu
Bộ binh chiến đấu (về mặt kỹ thuật, anh ta không được phép đeo), cuống huy hiệu Cánh quân Hoa Kỳ ở châu Âu, trên có năm ngôi sao đồng (thay vì chỉ một ngôi sao bạc, tương
đương với năm ngôi sao đồng) và cuống huy hiệu phục vụ thời kỳ tiền Trân Châu
Cảng. Anh ta thở dài và nói, “Đức Chúa toàn năng.” Câu đó chẳng có ý nghĩa gì
cả; Đây là Quân đội. Anh ta móc gói thuốc từ túi áo ra, rút một điếu, nhét lại
gói thuốc vào túi và cài nắp túi lại. Vừa rít thuốc, anh ta vừa lơ đãng nhìn
quanh phòng. Cuối cùng tia mắt của anh ta dừng lại trên cái radio. “Nè,” anh ta
nói, “vài phút nữa sẽ có chương trình radio hay kinh khủng. Bob Hope và mọi
người.”
X mở một gói thuốc,
bảo rằng anh vừa mới tắt radio.
Clay quan sát X
đang cố châm điếu thuốc. "Chúa ơi," anh ta nói, với sự nhiệt tình của
một khán giả, "anh phải nhìn lại đôi bàn tay của anh kìa. Bạn ơi, tay anh
run quá. Anh có biết không?"
X đã đốt cháy
điếu thuốc, gật đầu, và bảo rằng Clay đúng là có một con mắt quan sát tinh
tường.
“Nè, không đùa
đâu. Tôi đã suýt ngất khi trông thấy anh ở bệnh viện. Trông anh cứ như một cái
thây ma. Anh sụt bao nhiêu cân? Anh có biết không?’
“Tôi không biết.
Khi tôi đi khỏi cậu có thư từ gì không? Có tin gì của Loretta không?”
Loretta là người
yêu của Clay. Họ dự tính sẽ cưới nhau vào dịp thuận tiện sớm nhất. Cô viết thư
cho anh ta khá thường xuyên. Trong suốt cuộc chiến, Clay đã đọc lớn những lá
thư của Loretta cho X nghe, dù chúng có thân mật tới cỡ nào – trên thực tế,
càng thân mật thì càng tốt. Anh ta có thói quen là sau mỗi lần đọc lại đề nghị
X phác thảo hay góp ý cho lá thư hồi âm, hay đệm thêm vào đó một vài từ ấn
tượng bằng tiếng Pháp hay tiếng Đức.
“Vâng, hôm qua
tôi vừa nhận thư cô ấy. Ở dưới phòng tôi. Sẽ đưa cho anh đọc sau,” Clay nói.
Anh ta ngồi thẳng trên cạnh giường, nén hơi thở lại, rồi phát ra một tiếng ợ
dài vang dội. Có vẻ như chỉ hài lòng nửa phần với thành quả đó, anh ta cố thử
thêm lần nữa. “Thằng anh chết tiệt của cô ấy sẽ rời khỏi hải quân vì cái hông,”
anh ta nói. “Anh ta bị ở hông, gã khốn kiếp đó.” Anh ta vươn thẳng người lên và
cố ợ thêm lần nữa, nhưng chỉ đạt kết quả dưới mức trung bình. Một nét cảnh giác
xuất hiện trên mặt anh ta.”Nè, tôi phải nói ngay kẻo quên mất. Mai chúng ta
phải dậy lúc năm giờ để tới Hamburg
hay đâu đó. Để nhận những cái áo khoác Eisenhower cho toàn đội.”
X nhìn anh ta
một cách oán ghét, bảo rằng anh không muốn có một cái áo khoác Eisenhower nào
hết.
Clay có vẻ ngạc nhiên,
gần như bị tổn thương chút ít. “Ồ, chúng tốt mà! Trông chúng rất khá. Vì sao
thế?”
“Không vì sao
hết. Tại sao chúng ta phải thức dậy lúc năm giờ? Chiến tranh đã qua, vì Thượng đế.”
“Tôi không biết…
chúng ta phải quay về trước bữa trưa. Họ có một vài mẫu đơn mới mà chúng ta
phải điền vào trước giờ ăn trưa… Tôi đã hỏi Bulling vì sao chúng ta không thể
điền vào chúng ngay đêm nay… hắn đặt mấy mẫu đơn mới ngay trên bàn hắn. Hắn
chưa muốn mở những cái phong bì ra, tên chó đẻ đó.”
Cả hai ngồi im
lặng trong giây lát, cùng căm ghét Bulling. Clay đột nhiên nhìn X với một cái
nhìn mới mẻ, chăm chú hơn lúc nãy. "Nè," anh ta nói. "Anh có
biết một bên mặt anh đang co giật lung tung không?"
X đáp rằng anh
biết hết, rồi giơ bàn tay che chỗ co giật lại.
Clay nhìn anh
đăm đăm một lúc rồi nói, khá mạnh mẽ, như thể anh ta là người mang tới những
tin tức đặc biệt hay ho, “Tôi đã viết cho Loretta biết anh bị suy nhược thần
kinh.”
“Vậy hả?”
“Phải. Cô ấy
khoái cái thứ đó chết được. Cô ấy học khoa tâm lý mà.” Clay nằm duỗi dài ra
trên giường, chân vẫn mang giày. “Anh biết cô ấy nói gì không? Cô ấy bảo không
có ai bị suy nhược thần kinh chỉ vì chiến tranh các thứ. Cô ấy bảo có lẽ anh là
dạng người không ổn định, toàn bộ cái cuộc đời chết tiệt của anh.”
X xòe tay che
mắt – ánh sáng bên trên dường như làm mắt anh lòa đi – và nói rằng nhận thức
của Lorrreta về các sự vật luôn luôn là một niềm vui thú.
Clay đưa mắt
nhìn anh. “Nghe này, đồ khốn,” anh ta nói. “Cô ấy hiểu biết sâu sắc về tâm lý
học hơn anh nhiều.”
“Cậu có thể nhấc
đôi chân thúi của cậu ra khỏi giường tôi không?” X hỏi.
Clay vẫn để yên
đôi chân ở chỗ cũ trong vài giây rồi buông chúng xuống sàn nhà và ngồi dậy. “Dù
sao tôi cũng sẽ đi xuống dưới. Ở phòng Walker
có radio.” Tuy nhiên, anh ta vẫn không rời khỏi giường. “Nè, tôi vừa kể cho
thằng chó đẻ Bernstern mới tới ở dưới nghe. Có nhớ cái lần tôi và anh lái xe
tới Valogne và chúng ta phải tìm chỗ nấp khoảng hai tiếng, và cái con mèo chết
tiệt mà tôi đã bắn khi nó nhảy lên mui chiếc jeep trong lúc chúng ta đang nằm
trong cái hố đó? Nhớ không?
“Nhớ, đừng bắt
đầu câu chuyện về con mèo đó thêm lần nữa, Clay. Mẹ kiếp. Tôi không muốn nghe
chuyện đó.”
“Không đâu, ý
tôi chỉ là tôi đã kể cho Lorreta về nó. Cô ấy và cả lớp tâm lý đã thảo luận về
nó. Trong lớp học các thứ. Với ông giáo sư chết tiệt và mọi người.”
“Tốt. Tôi không
muốn nghe chuyện đó, Clay.”
“Không, Loretta
bảo anh có biết lý do tôi bắn con mèo đó không? Cô ấy nói tôi đã mất trí tạm
thời. Không đùa đâu. Nằm nấp trong hố các thứ.”
X lại xòe mấy
ngón tay cào lên mái tóc bẩn, rồi lại đưa tay che mắt khỏi ánh đèn. “Cậu không
mất trí. Cậu chỉ làm nhiệm vụ của mình. Cậu giết con mèo nhép đó một cách đàn
ông như bất kỳ người nào phải hành động trong những tình huống đó.”
Clay nhìn anh
ngờ vực. “Anh đang nói cái quái quỷ gì thế?’
“Con mèo đó là
một tên gián điệp. Cậu phải bắn nó. Nó là một tên Đức lùn rất thông minh mặc
một chiếc áo choàng lông rẻ tiền. Vì thế tuyệt đối không có gì là tàn bạo, độc
ác hay bẩn thỉu, hay thậm chí…”
“Mẹ kiếp!” Clay
nói, đôi môi mím lại. “Anh không thể chân thành được hay sao?”
X chợt cảm thấy
buồn nôn, anh lắc lư người trên chiếc ghế rồi chộp lấy chiếc giỏ đựng rác - vừa
kịp lúc. Khi anh ngồi thẳng lên và quay sang người khách trở lại, anh bắt gặp
anh ta đang đứng với vẻ lúng túng ở chỗ giữa chiếc giường và cửa ra vào. X tính
xin lỗi, nhưng thay đổi ý định và cầm lấy điếu thuốc.
“Tôi xuống dưới
nghe chương trình của Hope trên radio đây,” Clay nói, giữ khoảng cách nhưng cố
tỏ ra thân thiện. “Như vậy tốt cho anh hơn. Ý tôi là vậy.”
“Cứ đi đi, Clay…
Tôi sẽ xem bộ sưu tập tem của tôi.”
“Hả? Anh có một
bộ sưu tập tem? Tôi không biết anh…”
“Chỉ nói đùa
thôi.”
Clay chậm rãi
bước thêm vài bước về phía cửa. “Có thể chút nữa tôi sẽ lái xe xuống
Ehstadt," anh ta nói. "Họ tổ chức khiêu vũ. Có thể sẽ kéo dài đến hai
giờ sáng. Anh đi không?"
"Không, cám
ơn... Tôi có thể tập vài bước trong phòng."
"Thôi được,
xin chào! Bây giờ thì, vì Chúa, hãy thoải mái đi." Cánh cửa đóng xập lại,
rồi lại được mở ra ngay lập tức, và Clay nói: "Nè. Tôi đặt lá thư gửi cho
Lorreta dưới chỗ cửa của anh được không? Tôi có viết mấy chữ Đức trong đó. Làm
ơn sửa chúng giùm tôi nhé?”
“Ừ. Bây giờ hãy
để cho tôi yên, mẹ kiếp.”
“Tất nhiên,”
Clay nói. “Anh có biết mẹ tôi viết gì cho tôi không? Bà viết rằng bà rất vui
mừng vì anh và tôi ở chung với nhau trong cuộc chiến. Chung một chiếc xe jeep
các thứ. Bà bảo mấy lá thư của tôi có vẻ văn hoa hơn từ lúc chúng ta ở gần
nhau."
X ngẩng lên nhìn
anh ta, rồi nói, với một nỗ lực to lớn, "Cám ơn. Gửi lời cám ơn bác ấy
giùm tôi."
"Tôi sẽ
nói. Xin chào." Cánh cửa đóng lại, lần này thì đóng hẳn.
X ngồi nhìn vào
cánh cửa ra vào một hồi lâu, rồi quay chiếc ghế sang phía bàn viết, nhấc chiếc
máy đánh chữ xách tay nằm dưới sàn nhà lên. Anh dọn chỗ để đặt nó lên bàn, gạt
sang bên đống thư từ chưa mở và những gói bưu kiện. Anh nghĩ nếu anh viết một
lá thư cho một người bạn cũ ở New York, có lẽ anh sẽ cảm thấy dễ chịu hơn,
nhưng anh không thể đút tờ giấy vào cái trục cuốn của máy đánh chữ, những ngón
tay của anh lúc này đang run rất mạnh. Anh đặt hai tay xuống hông một lúc, rồi
thử lại, nhưng cuối cùng vò nát tờ giấy trong tay.
Anh nhận thức
rằng anh phải mang chiếc giỏ đựng rác ra khỏi phòng, nhưng thay vì làm việc đó,
anh đặt hai cánh tay lên chiếc máy đánh chữ và tựa đầu lên đó, nhắm đôi mắt
lại.
Một vài phút
sau, khi mở mắt ra, anh thấy mình đang nhìn vào một một gói bưu kiện nhỏ chưa
mở, màu xanh. Có lẽ nó đã trượt khỏi đống thư từ khi anh dọn chỗ cho chiếc máy
đánh chữ. Anh nhận thấy nó đã được gửi đi gửi lại nhiều lần. Anh có thể thấy,
từ một phía của gói bưu phẩm, ít nhất có ba dòng ghi hòm thư cũ của anh.
Anh mở gói bưu
phẩm ra một cách thờ ơ, thậm chí không nhìn vào địa chỉ của người gửi tới. Anh
đốt một que diêm rồi đốt sợi dây ràng. Anh thích việc nhìn sợi dây bốc cháy hơn
là việc mở cái gói đó, nhưng cuối cùng anh cũng mở nó ra.
Phía trong chiếc
hộp, có một lá thư viết bằng mực, nằm bên trên một gói nhỏ được bao lại bằng
giấy lụa. Anh cầm tờ ghi chú lên và đọc.
17 Ðường_______ , Devon, ngày
7/6/1944
Trung sỹ X thân mến,
Cháu hy vọng chú sẽ tha lỗi cho cháu vì đã để đến 38 ngày mới bắt
đầu việc thư từ liên lạc với chú, nhưng cháu đã vô cùng bận rộn vì cô cháu bị
viêm họng suýt chết và cháu phải gánh vác hết mọi trách nhiệm. Tuy nhiên, cháu
thường nghĩ đến chú và đến buổi chiều cực kỳ thú vị mà chúng ta đã trải qua
cùng nhau, vào ngày 30/4/1944, khoảng giữa 3:45 và 4:15, trong trường hợp chú
đã quên khuấy ngày giờ.
Tất cả mọi người chúng cháu rất xúc động và tôn trọng Ngày D và
chỉ hy vọng rằng nó sẽ mang lại một kết thúc nhanh chóng cho cuộc chiến và một
phương thức tồn tại phải nói là thật lố
lăng. Cả Charles lẫn cháu đều quan tâm tới chú; chúng cháu hy vọng chú không
nằm trong số những người tấn công đầu tiên lên bán đảo Cotentin.
Chú có nằm trong số đó không? Xin trả lời cho cháu càng nhanh càng tốt. Gửi lời
thăm nồng ấm nhất đến vợ của chú.
Thân ái, Esmé
Tái bút: Cháu muốn giành quyền tự do định đoạt và gửi kèm theo đây
chiếc đồng hồ mà chú có thể giữ làm sở hữu trong thời gian chinh chiến. Cháu
không để ý xem chú có đeo cái đồng hồ nào trong cuộc trò chuyện ngắn ngủi của
chúng ta hay không, nhưng cái đồng hồ này chống thấm và chống va đập cực kỳ
tốt, cũng như có nhiều phẩm chất khác mà một trong số đó là người ta có thể
biết tốc độ đi bộ của mình nếu muốn. Cháu chắc rằng chú sẽ cần dùng nó trong
những ngày khó khăn này hơn là cháu, và chú sẽ nhận nó như là một món quà phù
trợ nhiều may mắn.
Charles, người mà cháu đang dạy đọc, viết và người mà cháu nhận
thấy là một chú bé cực kỳ thông minh muốn viết thêm vài chữ. Xin vui lòng viết
ngay khi chú có thời gian và hứng thú.
XIN CHÀO XIN CHÀO XIN CHÀO XIN CHÀO XIN CHÀO XIN CHÀO XIN CHÀO XIN
CHÀO YÊU VÀ HÔN CHÚ
CHARLES
Một lúc thật lâu
sau X mới có thể đặt lá thư sang bên, lấy chiếc đồng hồ của cha Esmé ra khỏi
hộp. Khi nó đã hoàn toàn rời khỏi chiếc hộp, anh thấy rằng mặt kính của nó đã
bị vỡ. Anh tự hỏi không biết nó còn bị hư hỏng gì khác nữa không, nhưng anh
không có đủ can đảm để lên giây cót và tìm hiểu thêm. Anh chỉ ngồi đó, cầm nó
trên tay trong một lúc lâu. Rồi đột nhiên anh cảm thấy buồn ngủ.
Cháu đã gặp một
gã sầu héo, ngáy ngủ, Esmé, và hắn ta luôn luôn tìm một cơ may để lại có thể
trở thành một con người với tất cả các t-í-n-h n-ă-n-g còn nguyên vẹn.
Nguyễn Thành Nhân dịch
(Từ The New Yorker, 8/4/1950,
trang 28-36)
[*]
European Theater Of Operations,
US Army: cánh
quân của Mỹ ở mặt trận châu Âu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét