6
Nhưng điều gì đã xảy ra?
Ai đó đã sai lầm.
Từ trạng thái mơ màng, bà bắt đầu nghĩ về ý nghĩa của những
từ mà bà đã neo giữ một cách vô ý nghĩa trong tâm trí mình suốt một lúc lâu.
“Ai đó đã sai lầm” – dán đôi mắt cận thị vào ông chồng, người lúc này đang bước
về phía bà, bà nhìn đăm đăm cho tới khi sự có mặt của ông (câu thơ tự đan kết
với nhau trong đầu bà) hé lộ rằng đã có điều gì đó xảy ra, đã có ai đó sai lầm.
Nhưng suốt đời mình, bà không thể nghĩ ra đó là gì.
Ông ấy rùng mình; ông ấy run rẩy. Mọi ảo tưởng phù du của
ông ấy, mọi niềm mãn nguyện của ông ấy về sự chói lọi của chính mình, phi ngựa
như một tia chớp, hung tợn như một con chim ưng ở phía trước những người lính
của mình khi băng qua cái thung lũng tử thần, tất cả đã đổ vỡ tan tành như mây khói.
Xông pha trong đạn pháo, chúng ta can trường cưỡi ngựa xông lên, lao như chớp
qua thung lũng tử thần – thẳng vào Lily Briscoe và William Bankes. Ông ấy rùng
mình. Ông ấy run rẩy.
Nhận ra, từ những dấu hiệu quen thuộc, rằng đôi mắt ông ấy
hướng sang nơi khác, với một sự thu mình kỳ lạ nào đó, như thể ông ấy đang tự
bao kín lấy bản thân và cần sự riêng tư để lấy lại thăng bằng, rằng ông ấy đang
nổi giận và đau khổ, chẳng có lý do gì trên đời để bà phải nói gì với ông ấy
cả. Bà vuốt nhẹ đầu James; bà truyền sang cho nó điều mà bà cảm nhận về chồng
mình, và, trong lúc ngắm nhìn nó tô phấn vàng lên chiếc áo trắng của một quý
ông trong cuốn danh mục hàng hóa của cửa hàng Quân đội và Hải quân, bà nghĩ hẳn
bà sẽ vui sướng biết bao nếu nó trở thành một nghệ sĩ lớn; và tại sao nó lại
không trở thành như thế chứ?
Nó có một vầng trán tuyệt vời. Thế rồi, ngẩng nhìn lên, khi
ông chồng đi ngang bà một lần nữa, bà nhẹ nhõm khi nhận thấy sự sụp đổ đã được
che giấu kín; đời sống gia đình đã hát khúc khải hoàn ca; tập quán lại ngân nga
giai điệu vỗ về của nó, khiến khi dừng lại một cách chủ động trong chuyến vòng
trở lại chỗ cửa sổ, ông cúi người xuống một cách giễu cợt và bất thường để cù
vào bắp chân để trần của James với một nhánh cây gì đó, bà trách ông về việc đã
bỏ rơi Charles Tansley, “cái gã trẻ tuổi tội nghiệp đó”. Anh ta phải vào phòng
để viết bản luận án của mình, ông ấy nói.
“James sẽ phải viết bản luận án của nó về một trong những
ngày này,” ông ấy nói thêm một cách mỉa mai, khua nhẹ cái nhánh cây.
Ghét cha mình, James gạt ra xa cái nhánh cây mà cha nó đang
cù vào bắp chân trần của nó theo một cung cách riêng biệt của ông, kết hợp giữa
sự nghiêm khắc và tính khôi hài.
Bà đang cố hoàn thành những chiếc vớ đáng ngán ngẩm này để
ngày mai gửi cho đứa con trai bé nhỏ của Sorley, bà Ramsay nói.
Chẳng có một cơ may khả dĩ nhỏ nhất nào để họ có thể đi ra
ngọn hải đăng vào ngày mai, ông Ramsay cáu kỉnh ngắt ngang.
Làm sao ông biết? bà hỏi. Gió thường hay thay đổi.
Sự vô lý tột cùng trong nhận xét của bà, sự điên rồ của đầu
óc đàn bà khiến cho ông điên tiết. Ông đã cưỡi ngựa băng qua thung lũng tử
thần, đã tả tơi và run rẩy; thế mà bây giờ bà bất chấp cả những thực tế, khiến
cho lũ con của ông hy vọng về một chuyện hoàn toàn vô căn cứ, thực ra là nói
những lời dối trá. Ông dậm mạnh bàn chân lên bậc thềm đá. “Quỷ tha ma bắt bà
đi,” ông nói. Nhưng bà đã nói gì? Chỉ đơn giản là ngày mai có thể trời đẹp. Có
thể là như thế.
Bất chấp phong vũ kế đang hạ thấp và gió thổi về đúng hướng
tây.
Đối với bà, việc theo đuổi chân lý mà không hề quan tâm tới
cảm giác của mọi người một cách đáng kinh ngạc như thế, việc xé tan tành những
tấm màn che mỏng manh của văn minh một cách cố tình, tàn bạo như thế, là một sự
xúc phạm quá kinh khủng tới phép lịch sự của con người đến mức bà cúi đầu xuống
như thể để cho trận mưa đá phũ phàng, dòng nước bẩn thỉu trào tuôn đó ập xuống
người mình mà không hề trách móc. Không có gì để nói cả.
Ông ấy đứng im lặng cạnh bà. Cuối cùng, rất nhún nhường, ông
ấy bảo rằng ông ấy sẽ đi ra đó và hỏi những người lính tuần duyên nếu bà muốn.
Bà không sùng kính một ai như đã sùng kính ông.
Bà rất sẵn lòng nhận lời ông ấy về điều đó, bà nói. Chỉ vậy
họ mới không phải xa cách nhau thêm – có thế thôi. Họ tới với bà, một cách tự
nhiên, vì bà là một người đàn bà, suốt cả ngày dài bận rộn với việc này việc
nọ; người muốn điều này, kẻ muốn điều kia; lũ trẻ thì đang tuổi lớn; bà thường
cảm thấy bà chẳng là gì cả ngoài một mẩu bọt biển thấm đẫm những cảm xúc của
con người. Thế rồi ông ấy nói, “Quỷ tha ma bắt bà đi. Ông ấy nói, Trời phải
mưa. Giá như ông ấy nói, Trời sẽ không mưa; ngay lập tức một vũ trụ an toàn sẽ
mở ra trước mắt bà. Bà không sùng kính người nào hơn thế. Bà cảm thấy bà không
đủ sức để trói buộc ông ấy.
Xấu hổ về sự nóng nảy đó, về điệu bộ vung chân múa tay khi xung
phong ở phía trước đạo quân của mình đó, ông Ramsay ngượng ngập cù vào cái chân
trần của đứa con trai một lần nữa, và rồi, như thể ông buộc bà phải rủ bỏ nó
đi, với một khoảnh khắc mà lạ lùng thay đã nhắc nhở vợ ông về con sư tử biển to
lớn ở Vườn thú đang nhào lộn ra sau khi đã nuốt con cá của ông rồi phóng vụt đi
khiến nước trong cái bồn chứa sóng sánh từ phía này sang phía khác, ông lặn sâu
vào bầu không khí chiều tà đã trở nên mong manh hơn và lúc này đang xoá nhòa đi
những chiếc lá và hàng giậu, nhưng, như thể để bù đắp lại, mang tới cho những
bông hồng và bông cẩm chướng một vẻ lộng lẫy mà chúng không có lúc ban ngày.
“Ai đó đã sai lầm,” ông lại vừa ngâm nga vừa sải dài chân
qua lại trước hiên nhà.
Nhưng âm điệu của ông đã thay đổi đến lạ lùng! Nó giống như
tiếng gà gáy; “vào tháng Sáu anh chàng bị mất giọng”; như thể ông đang thử
nghiệm, đang tìm kiếm một cách ngập ngừng, một cụm từ cho tâm trạng mới, và vì
chỉ có cụm từ này trong tay, đành phải sử dụng nó, dù nó ồ ề. Nhưng nghe nó
thật buồn cười – “Ai đó đã sai lầm” – được nói theo kiểu gần như là một câu
hỏi, không có chút sức thuyết phục nào, về mặt âm điệu. Bà Ramsay không thể
không mỉm cười, và ngay sau đó, chắc chắn là vậy, trong khi vẫn đi qua đi lại,
ông ấy bắt đầu ậm ừ, hạ giọng, rồi im bặt.
Ông đã an toàn. Ông đã có lại sự riêng tư của mình. Ông dừng
lại để đốt tẩu thuốc, nhìn một cái vào vợ và con trai mình ở phía trong cửa sổ,
và như một người trong một con tàu tốc hành vừa rời mắt khỏi một trang sách,
ngước lên và nhìn thấy một trang trại, một thân cây, một khóm nhà trông như một
bức tranh minh họa, một sự xác nhận về một điều gì đó trên trang giấy in mà anh
ta quay nhìn trở lại, được củng cố tinh thần, và mãn nguyện, dù không thể nhìn
rõ cả vợ lẫn con trai mình, hình ảnh của họ cũng củng cố tinh thần ông, làm cho
ông mãn nguyện và thúc đẩy ông nỗ lực đạt tới một sự thấu hiểu hoàn toàn rõ
ràng về vấn đề lúc này đang thu hút những năng lượng trong bộ óc tuyệt vời của
ông.
Nó là một bộ óc tuyệt vời. Vì nếu tư tưởng giống như bàn
phím của một chiếc dương cầm, được chia làm rất nhiều nốt, hay giống như hai
mươi sáu mẫu tự ABC xếp theo trật tự, khi đó bộ óc tuyệt vời của ông chẳng hề
khó khăn chút nào trong việc điểm qua lần lượt từng mẫu tự đó, một cách chắc
chắn và chính xác, cho tới khi nó tới, chẳng hạn, mẫu tự Q. Ông đã tới mẫu tự
Q. Trong toàn bộ nước Anh có rất ít người tới được chữ Q. Ở đây, dừng lại một
lúc cạnh cái chậu đá trồng phong lữ thảo, ông nhìn thấy, nhưng bây giờ rất xa
xôi, vợ và con trai ông, cả hai, phía trong cửa sổ, như bọn trẻ con đang nhặt
vỏ sò, cực kỳ vô tư và hoàn toàn bị xâm chiếm bởi những thứ bé nhỏ dưới chân
chúng và theo cách nào đó hoàn toàn vô tự vệ không thể chống lại một định mệnh
bất hạnh mà ông nhận thức được. Họ cần sự bảo vệ của ông; ông đã trao nó cho họ.
Nhưng sau chữ Q? Điều gì sẽ tới? Sau chữ Q là một số mẫu tự mà cuối cùng trong
số chúng là một mẫu tự hiếm khi những đôi mắt phàm nhân nhìn thấy, nhưng đang
đỏ lấp lánh ở phía xa xa. Chỉ duy nhất một người trong mỗi thế hệ đạt tới chữ Z
một lần. Tuy nhiên, nếu ông có thể tới chữ R thì đó cũng là một điều đáng kể.
Ít nhất ở đây là chữ Q. Ông đào sâu gót chân xuống chữ Q. Ông chắc chắn về chữ
Q. Ông có thể chứng minh chữ Q. Nếu đã Q thì rồi sẽ có Q–R. Tới đây ông gõ cái
ống tẩu, với hai ba tiếng vang vang, trên cái tay xách của chiếc chậu, và tiếp
tục. “Vậy thì R…” Ông gắng hết sức. Ông tự xiết lấy chính mình.
Những phẩm chất có thể cứu hành khách của một con tàu hiện
ra trên biển cả sôi sục dưới hình thức sáu cái bánh quy và một chai nước – sự
chịu đựng và công lý, sự lo xa, sự tận tụy, kỹ năng, đã giúp sức cho ông. Vậy R
là – R là gì?
Một tấm màn, như lớp da mí mắt của một con thằn lằn, nhấp
nháy bên trên cái nhìn căng thẳng của ông và che khuất chữ R. Trong tia chớp
của bóng tối đó ông nghe mọi người đang nói – ông là một kẻ thất bại – rằng chữ
R vượt khỏi tầm của ông.
Ông sẽ không bao giờ chạm tới chữ R. Hướng tới chữ R, một
lần nữa. R –
Những phẩm chất – mà trong một cuộc thám hiểm lẻ loi băng
qua những vùng băng giá quạnh hiu ở vùng địa cực sẽ biến ông trở thành vị chỉ
huy, kẻ dẫn đường, viên cố vấn, một người có tính khí không lạc quan nhưng cũng
không thoái chí, người sẽ bình tĩnh nghiên cứu xem điều gì sẽ đến và đối mặt
với nó – lại một lần nữa trợ giúp cho ông. R–
Mí mắt của con thằn lằn lại nhấp nháy một lần nữa. Những tấm
màn che trên trán ông phình to ra. Cây phong lữ thảo trong cái chậu trở nên
hiển hiện đến lạ lùng, và, hiện ra giữa những chiếc lá của nó, ông có thể nhìn
thấy, không hề mong muốn nó, sự khác biệt xưa cũ, hiển nhiên giữa hai loại người;
một bên là những kẻ qua lại đều đều với sức mạnh siêu phàm, nặng nhọc và kiên
trì, họ lặp lại toàn bộ các mẫu tự ABC theo trật tự, tất cả hai mươi sáu chữ
cái, từ đầu tới cuối; một bên khác là những kẻ tài năng, những kẻ tràn đầy cảm
hứng mà như trong một phép mầu, họ thu tóm tất cả mọi chữ cái trong một tia
chớp lóe – cung cách của thiên tài. Ông không có thiên tài; ông chẳng phàn nàn
gì về điều đó: nhưng ông có, hoặc có thể có, khả năng lặp lại mọi từ trong bảng
chữ cái theo đúng trật tự từ A tới Z một cách chính xác. Đồng thời trong lúc đó
ông bị mắc kẹt ở chữ Q. Vậy thì, hướng tới R.
Lúc này, khi tuyết bắt đầu rơi và sương giá bao trùm đỉnh
núi, những cảm giác ô nhục mà hẳn sẽ không đến với một người lãnh đạo, kẻ biết
rằng ông ta phải nằm xuống và chết trước khi bình minh lên, đang luồn vào tâm
hồn ông, làm mờ đi màu mắt ông, mang tới cho ông, thậm chí chỉ trong vòng hai
phút sau khi ông quay ra trước sân hiên, vẻ nhợt nhạt của tuổi già héo hắt. Thế
nhưng ông sẽ không nằm xuống chết; ông sẽ tìm ra một vách đá cheo leo, và ở đó,
đôi mắt ông sẽ gắn chặt vào cơn bão tố, cố gắng chọc thủng màn đêm cho tới phút
cuối cùng, ông sẽ chết đứng. Ông sẽ không bao giờ với tới chữ R.
Ông đứng bất động cạnh chậu hoa phong lữ thảo tỏa nhánh um
tùm. Rốt cuộc, có bao nhiêu người trong một tỷ người, ông tự hỏi, đã chạm tới
chữ R? Chắc chắn là một người lãnh đạo với niềm hy vọng chơ vơ có thể tự hỏi
mình điều đó, và trả lời mà không phản bội lại đoàn thám hiểm phía sau ông ta,
“Có lẽ là một người.” Một người trong cả một thế hệ. Ông có đáng trách không
nếu ông không phải là người đó? Miễn là ông đã lao khổ một cách chân thành, cố
gắng với hết khả năng, cho tới khi ông không còn gì để cho đi nữa? Và tên tuổi
của ông sẽ tồn tại bao lâu? Ngay cả một vị anh hùng đang hấp hối cũng được phép
suy nghĩ trước khi ông ta chết rằng người ta sẽ nói về mình như thế nào sau đó.
Có lẽ tên tuổi của ông sẽ tồn tại được hai ngàn năm. Và hai ngàn năm là cái
quái gì? (ông Ramsay tự hỏi với vẻ mỉa mai, nhìn đăm đăm vào hàng giậu). Là cái
quái gì, thật thế, khi bạn nhìn từ một đỉnh núi xuống bãi sa mạc thời gian dài
vô tận? Ngay cả một hòn cuội mà người ta giơ chân đá văng xuống cũng sẽ tồn tại
lâu hơn Shakespeare.
Ánh sáng bé nhỏ của ông sẽ tỏa ra, không rực rỡ lắm, trong
một hoặc hai năm, rồi sẽ chìm vào một ánh sáng lớn hơn, và ánh sáng đó lại chìm
vào một ánh sáng khác lớn hơn nữa.
(Ông nhìn vào hàng giậu, vào sự phức tạp của những nhánh cây
con.) Vậy thì ai có thể trách người chỉ huy của đoàn người tuyệt vọng mà nói
cho cùng đã trèo lên khá cao để có thể nhìn xuống bãi sa mạc của những tháng
năm và sự tàn lụi của những vì sao, nếu trước khi cái chết làm tứ chi ông ta
đông cứng lại ngoài khả năng cử động, ông thực hiện một cử động đầy ý thức, đưa
những ngón tay tê cóng lên mày rồi vươn thẳng vai, để khi đoàn tìm kiếm tới
nơi, họ sẽ thấy rằng ông ta đã chết ở vị trí của mình, hình ảnh đẹp đẽ của một
người chiến sĩ? Ông Ramsay vươn vai và đứng rất thẳng cạnh cái chậu hoa.
Ai sẽ trách ông nếu ông cứ đứng như thế trong giây lát, tập
trung suy ngẫm về danh vọng, về những đoàn tìm kiếm, về những tháp đá tưởng
niệm dựng lên bởi những đồ đệ biết ơn trên nắm xương khô của ông? Cuối cùng, ai
sẽ trách người chỉ huy của đoàn thám hiểm bất hạnh đó, khi ông đã mạo hiểm cho
tới phút tận cùng, đã sử dụng toàn bộ sức lực cho cân nặng cuối cùng và rơi vào
giấc ngủ mà không mấy quan tâm tới việc mình có còn tỉnh giấc nữa hay không, và
bây giờ ông nhận thức bằng những cảm giác tê nhói ở mấy ngón chân rằng ông còn
sống, không chỉ vì mục đích sống, mà còn đòi hỏi sự cảm thông, và rượu whisky,
và ai đó để kể lại ngay tức khắc câu chuyện về nỗi thống khổ của mình? Ai sẽ
trách ông? Ai sẽ không kín đáo hân hoan
khi vị anh hùng đã cởi tấm áo giáp khỏi người, dừng lại bên cửa sổ và nhìn chăm
chú vào vợ và con trai của mình, những người lúc đầu rất xa xôi, dần dần trở
nên gần hơn, cho tới khi những đôi môi, cuốn sách và mái đầu hiện lên rõ ràng
trước mắt ông, dù vẫn đáng yêu và xa lạ với sự cô đơn trầm trọng của ông, với
bãi sa mạc thời gian và sự tàn lụi của những vì sao, và cuối cùng sẽ nhét cái
tẩu thuốc vào túi và cúi mái đầu cao quý của mình trước bà ấy – ai sẽ trách ông
nếu ông tỏ lòng kính trọng vẻ đẹp của trần gian?
7
Nhưng con trai ông ghét ông. Nó ghét ông vì ông tới bên họ,
dừng lại và nhìn xuống họ; nó ghét ông vì ông đã xen vào giữa họ; nó ghét ông
vì những điệu bộ ra vẻ trịch thượng và cao cả của ông; vì sự cao quý của đầu óc
ông; vì sự đòi hỏi quá quắt và tính ích kỷ của ông (ông đứng đó, đòi hỏi họ
phải chú ý tới ông) nhưng hơn hết mọi thứ nó ghét những thể hiện cảm xúc ồn ào
nhặng xị của cha nó, đang làm rung động cả bầu không khí xung quanh họ, quấy
nhiễu sự hồn nhiên trọn vẹn và cảm nhận tốt đẹp về mối quan hệ giữa nó và mẹ
nó. Bằng cách dán mắt vào trang giấy, nó hy vọng sẽ làm cho ông đi tiếp; bằng cách
chỉ ngón tay vào một từ, nó hy vọng lôi kéo lại sự chú ý của mẹ nó, điều mà, nó
biết một cách giận dữ, sẽ ngay lập tức khiến cha nó bỏ đi. Nhưng, không. Không
có gì làm cho ông Ramsay bỏ đi được. Ông đứng đó, đòi hỏi sự cảm thông.
Bà Ramsay, đang ngồi thanh thản, ôm đứa con trai trong tay,
hơi xoay người lại và dường như nhấc mình lên với một nỗ lực, và ngay lập tức
trút thẳng vào bầu không khí một trận mưa năng lượng, một cột bụi nước, đồng
thời trông có vẻ linh hoạt và sống động như thể toàn bộ những năng lượng của bà
đang hợp nhất thành sức mạnh, cháy bùng và tỏa sáng (dù bà chỉ ngồi lặng lẽ,
cầm lại chiếc tất), và sự cằn cỗi tiền định của người đàn ông sục bản thân nó
vào người đàn bà mắn đẻ ngọt ngào này, suối nguồn dào dạt này, như một chiếc
vòi ấm đồng khô khan và trần trụi. Ông muốn được cảm thông. Ông là một kẻ thất
bại, ông nói. Bà Ramsay vung vẩy hai chiếc kim đan. Ông Ramsay lặp lại, không
hề rời mắt khỏi gương mặt bà, rằng ông là một kẻ thất bại. Bà đáp lại ông mấy
từ. “Charles Tansley…” bà nói. Nhưng ông phải được nhiều hơn thế. Điều ông muốn
là sự cảm thông, là được khẳng nhận về thiên tài của mình, trước nhất, rồi được
đưa vào vòng đời, ấm áp và đầy an ủi, để khôi phục lại những cảm giác của ông,
để khoác bộ lông thú lên sự trần trụi của ông, và để mọi căn phòng của ngôi nhà
tràn đầy sức sống – phòng khách; sau phòng khách là nhà bếp; phía trên nhà bếp
là những phòng ngủ và ở mé ngoài chúng là những phòng cho lũ trẻ; chúng phải
được trang bị đồ đạc, chúng phải ngập tràn sự sống.
Charles Tansley nghĩ ông là nhà siêu hình học vĩ đại nhất
của thời này, bà nói. Nhưng ông phải có nhiều hơn thế. Ông phải có sự cảm
thông. Ông phải an tâm rằng cả ông nữa cũng sống ở ngay trung tâm cuộc sống;
được cần đến; không chỉ ở đây, mà trên khắp cả thế gian. Vung đôi kim đan, tự
tin, người vươn thẳng, bà tạo ra căn phòng khách và nhà bếp, làm cho tất cả
sáng ngời lên; mời ông cứ tự nhiên thoải mái ở đó, đi vào và đi ra, tự tìm vui
thú cho mình. Bà cười to, bà đan. Đứng cứng người giữa hai đầu gối của bà, James
cảm thấy mọi sức mạnh của bà cháy bùng lên để say sưa và bị dập tắt bởi cái vòi
ấm đồng, thanh đao khô cằn của người đàn ông, lúc này đang vỗ mạnh một cách
không thương xót, hết lần này sang lần khác, đòi hỏi sự cảm thông.
Ông là một kẻ thất bại, ông lặp lại. Ồ, thế thì nhìn xem,
thế thì cảm nhận xem. Vung đôi kim đan, đảo mắt nhìn quanh, ra phía ngoài cửa
sổ, vào trong phòng, vào chính thằng James, bà làm cho ông an tâm, không hề có
mảy may nghi ngờ nào hết, bằng tiếng cười của bà, tư thế của bà, năng lực của
bà (như một người bảo mẫu mang một cây đèn băng qua căn phòng tối để giúp một
đứa bé cứng cổ thấy an tâm), rằng thật sự là như vậy; ngôi nhà đầy đủ các thứ;
khu vườn đang nở rộ hoa. Nếu ông đặt trọn vẹn niềm tin vào bà, không gì làm ông
thương tổn được; bất kể ông tự vùi lấp mình sâu đến thế nào hay trèo cao tới
đâu, ông sẽ không bao giờ phát hiện ra không có bà bên cạnh. Kiêu hãnh đến vậy
về khả năng bao bọc và bảo vệ của bà, hầu như bản thân bà không còn lớp vỏ bọc
nào để biết về chính bản thân mình; tất cả đều quá hoang toàng phung phí; và
James, khi đứng cứng người giữa hai đầu gối của bà, cảm thấy bà đang vươn lên
thành một thân cây ăn quả nở rộ những bông hoa màu hồng với những chiếc lá và
nhánh cây nhảy múa mà cái vòi ấm đồng, thanh đao khô cằn của cha nó, người đàn
ông tự cao tự đại, đang cắm vào, đập mạnh vào đó, để đòi hỏi sự cảm thông.
Phủ phê với những lời nói của bà, như một đứa bé bỏ đi lòng
đầy mãn nguyện, cuối cùng ông nói, nhìn bà với vẻ nhún nhường biết ơn, tỏ ra đã
khôi phục, đổi mới chính mình, rằng ông sẽ đi một vòng; ông sẽ xem lũ trẻ chơi
crikê. Ông đi.
Ngay lập tức, dường như bà Ramsay tự xếp bản thân mình lại,
cánh hoa này ép vào cánh khác, và toàn bộ kết cấu đó kiệt lực rũ xuống chính
bản thân nó, khiến bà chỉ còn đủ sức cử động ngón tay lướt qua trang sách
truyện cổ Grim, trong khi trạng thái say mê của sáng tạo thành công lan tỏa
suốt người bà, như mạch đập của một con suối đã mở rộng hết bề ngang của nó và
giờ đây dịu dàng ngưng nhịp vỗ.
Khi ông ấy đã đi khỏi, mỗi nhịp đập của mạch tim này dường
như bao gồm cả bà lẫn chồng bà, và mang đến cho mỗi người niềm an ủi mà hai nốt
nhạc khác nhau, một cao, một thấp, khi hòa trộn vào nhau dường như cũng trao
tặng cho nhau khi chúng kết hợp lại. Thế nhưng khi âm hưởng này đã lặng đi, và
bà đã quay trở lại cuốn truyện cổ, bà Ramsay cảm thấy không chỉ sự kiệt sức (bà
luôn cảm thấy điều này sau đó, chứ không phải ngay lúc đó) mà còn có một cảm
giác khó chịu mơ hồ nào đó với một căn nguyên khác tác động lên sự mệt nhoài
thể chất của bà. Bà không biết đích xác nó xuất phát từ cái gì, khi đang đọc to
câu chuyện Vợ chồng người ngư phủ; vào lúc đang lật sang trang mới, dừng
lại và nghe thấy một đợt sóng vỗ mơ hồ, đầy điềm gỡ, bà cũng không cho phép
mình thốt thành lời sự bất mãn của mình khi nhận ra nó đã đến như thế nào từ
điều này: bà không thích, thậm chí dù chỉ trong một giây, cảm thấy mình tốt hơn
chồng mình; và hơn thế nữa, bà không thể chịu nổi việc không hoàn toàn chắc
chắn, khi bà nói với ông về sự thật của điều bà nói. Những trường đại học và
mọi người cần tới ông ấy, những bài giảng, những cuốn sách và tầm quan trọng
tối cao của chúng – bà không ngờ vực phút giây nào về điều đó; nhưng chính mối
quan hệ của họ, và việc ông tới với bà như thế, một cách công khai, khiến bất
cứ một ai cũng có thể nhìn thấy, điều đó khiến cho bà lo ngại. vì khi đó mọi
người sẽ bảo ông ấy phụ thuộc vào bà, khi họ phải biết rằng trong hai người ông
hoàn toàn là người quan trọng hơn, và những gì bà cho thế giới, so với những gì
ông cho đi, là không đáng kể. Nhưng lại còn một điều khác nữa – việc không thể
nói với ông ấy sự thật vì e ngại, chẳng hạn, về mái của cái nhà kính và chi phí
của nó, có lẽ phải tốn năm mươi bảng để sửa chữa nó; rồi về những cuốn sách của
ông ấy, sợ rằng ông ấy có thể đoán ra, điều này bà khá nghi ngờ, rằng cuốn sách
mới nhất của ông ấy không hoàn toàn là cuốn hay nhất (bà thu lượm được điều đó
từ William Bankes); rồi việc phải che giấu những chuyện nhỏ nhặt hàng ngày, bọn
trẻ thấy điều này, và gánh nặng đó đè lên chúng – tất cả những điều này đã làm
giảm bớt niềm vui trọn vẹn, nỗi hân hoan thuần khiết, của hai nốt nhạc cùng
vang lên một lúc, và khiến cho bây giờ âm thanh đó chết lịm trong tai bà với
một quãng lặng ảm đạm.
Một bóng người đổ ập lên trang giấy; bà ngẩng lên. Augustus
Carmichael đang lê bước ngang qua, chính xác ngay lúc này, ngay cái thời khắc
khi quá đau lòng để được nhắc nhở về sự không tương thích của những mối quan hệ
giữa con người, rằng mối quan hệ hoàn hảo nhất cũng có khiếm khuyết, và không
thể chịu đựng nổi sự thẩm tra mà bà thù ghét, với tình yêu dành cho chồng và
với bản năng đối với chân lý của bà; khi quá đau lòng để cảm thấy bản thân bị
kết án là vô giá trị, và bị những sự dối trá, những sự cường điệu này cản trở
việc thực hiện những chức năng chính đáng của bà – ngay lúc này, khi mà bà cảm
thấy nhục nhã như vậy sau khi được tán dương, ông Carmichael lại lê bước ngang
qua, chân mang đôi dép lê màu vàng, và một con quỷ nào đó trong bà khiến bà
thấy cần phải cất tiếng chào ông ta.
“Vào trong nhà hở, ông Carmichael?”
8
Ông ta chẳng nói lời nào. Ông ta đi lấy thuốc phiện. Lũ trẻ
nói ông ta đã nhuộm vàng bộ râu với nó. Có lẽ thế. Điều hiển nhiên với bà là
ông lão khốn khổ này không hạnh phúc, đến với họ hàng năm như để chạy trốn; thế
nhưng mỗi năm bà lại cảm thấy y như cũ: ông ta không tin bà. Bà nói, “Tôi sẽ vào thị trấn. Tôi kiếm
cho ông ít tem, giấy hay thuốc lá nhé?” và cảm thấy ông ta nhăn mặt. Ông ta
không tin bà. Đó là do vợ ông ta. Bà nhớ tới tội lỗi của người vợ đối với ông
ta, điều khiến cho bà biến thành sắt đá ở đó, trong cái căn phòng nhỏ kinh
khủng ở St. John’s Wood, khi bà tận mắt chứng kiến người đàn bà kinh tởm đó
tống cổ ông ta ra khỏi nhà. Ông ta ăn mặc lôi thôi lếch thếch; ông ta đánh đổ
mọi thứ lên áo khoác; ông ta có cái vẻ mệt nhọc của một ông già chẳng có việc
gì trên đời để làm cả; và bà ta đã tống ông ta khỏi căn phòng. Bà ta nói, với
cái kiểu cách đáng ghét của mình, “Bây giờ, bà Ramsay và tôi muốn trò chuyện
với nhau một chút,” và bà Ramsay có thể nhìn thấy, như thể đang trước mặt mình,
vô số những bất hạnh của cuộc đời ông ta. Ông ta có đủ tiền mua thuốc lá hay
không? Ông ta có phải hỏi xin bà ta? nửa đồng crown? mười tám xu? Ôi chao, bà
không thể không nghĩ tới những sỉ nhục nho nhỏ mà bà ta trút lên đầu ông ta. Và
bây giờ ông ta né tránh bà (vì sao thì bà không thể đoán ra, ngoại trừ rằng
theo cách nào đó có thể nó xuất phát từ người đàn bà đó). Ông ta không bao giờ
nói gì với bà. Nhưng bà có thể làm gì hơn? Có một căn phòng sáng sủa dành cho
ông ta. Lũ trẻ đối xử tốt với ông ta. Bà chưa bao giờ tỏ ra một dấu hiệu nào
rằng không muốn ông ta tới. Thật sự bà đã vượt khỏi cung cách ứng xử của mình
để tỏ ra thân thiện với ông ta. Ông có cần tem không, có cần thuốc lá không?
Đây là một cuốn sách mà có thể ông sẽ thích, vân vân. Và nói cho cùng – nói cho
cùng (tới đây bà vô tình vươn thẳng người lên, một cách vật chất, ý thức về vẻ
đẹp của chính bà, như đã từng xảy ra nhưng rất hiếm hoi, trở nên hiển hiện đối
với bà), nói cho cùng, nhìn chung bà không gặp bất kỳ khó khăn nào trong việc
làm cho mọi người thích bà; ví dụ như George Manning; như ông Wallace; tiếng
tăm lừng lẫy như thế, nhưng họ sẽ tới nhà bà một chiều nào đó, một cách lặng
lẽ, và nói chuyện một mình cạnh lò sưởi của bà. Bà thấy phát chán bản thân
mình, bà không thể không biết điều đó –
vẻ đẹp như ánh đuốc rạng ngời của bà; bà mang nó thẳng vào bất kỳ căn phòng nào
mà bà bước vào; và nói cho cùng, dù bà cố hết sức che đậy nó, cố lánh xa khỏi
cảm giác đơn điệu rằng nó lừa phỉnh mình, vẻ đẹp của bà là hiển nhiên. Bà đã được ngưỡng mộ. Bà đã được yêu.
Bà đã từng đi vào những căn phòng nơi những người than khóc ngồi. Những giọt lệ
đã rơi trong sự hiện diện của bà. Những người đàn ông, và cả những người đàn bà
nữa, luôn tiếp cận với tính chất đa chiều của sự vật, đã tự cho phép họ tìm ở
bà sự nhẹ nhõm của tính chất giản dị. Việc ông ta né tránh bà khiến bà bị tổn
thương. Nó làm bà tổn thương. Thế nhưng lại không phải theo một cách êm xuôi,
một cách đúng đắn. Đó chính là điều mà bà lưu tâm hướng tới trong lúc bất mãn
tột độ với chồng mình; bây giờ, khi ông Michael lê chân đi ngang qua, chỉ gật
đầu đáp lại câu hỏi của bà, với một cuốn sách cặp dưới cánh tay, với đôi dép lê
màu vàng, bà có cảm giác rằng mình bị nghi ngờ; rằng tất cả mong muốn cho đi,
giúp đỡ của bà chỉ là hảo huyền vô nghĩa. Có phải chính vì sự tự mãn nguyện của
chính mình mà bà mong muốn một cách bản năng để cho đi, để giúp đỡ, để mọi
người có thể nói về bà, “Ồ, bà Ramsay! Bà Ramsay thân mến…, bà Ramsay ư, dĩ
nhiên!” và cần tới bà, kêu gọi bà và ngưỡng mộ bà? Có phải đây chính là điều mà
bà kín đáo mong muốn, và do đó khi ông Michael tránh né bà, như ông ta đang làm
ngay lúc này, để lẩn tới một góc phòng nơi ông ta sẽ làm những câu thơ acrotic[1]
vô tận, bà không chỉ cảm thấy mất mặt một cách bản năng mà còn nhận thức ra sự
nhỏ nhen của một phần nào đó trong bà, và về những mối quan hệ con người, chúng
thật khiếm khuyết làm sao, ti tiện làm sao, tự tư tự lợi làm sao. Tiều tụy và
xác xơ, và hẳn nhiên không còn là một hình ảnh phủ đầy đôi mắt với niềm vui
nữa, tốt hơn bà nên dành tâm trí mình cho câu chuyện Vợ chồng người ngư phủ,
nhờ đó làm nguôi khuây cái tính nhạy cảm dễ bị tổn thương của thằng James con
trai bà (không có đứa nào trong lũ con của bà nhạy cảm nhiều như nó).
“Trái tim của người đàn ông trở nên nặng trĩu,” bà đọc lớn,
“và ông ta không đi. Ông ta tự nhủ với mình, ‘Như thế không đúng,’ và thế là
ông ta ra đi. Khi ông ta ra tới biển, mặt nước tím và xanh thẳm, xám và dầy,
không còn màu xanh lá và vàng, nhưng nó vẫn lặng yên. Ông ta đứng đó và nói…”
Bà Ramsay ước chi chồng bà đừng chọn ngay lúc đó để dừng
lại. Vì sao ông ấy không làm như đã nói, đi xem bọn trẻ chơi crikê? Nhưng ông
không nói; ông nhìn; ông gật đầu; ông bằng lòng; ông đi tiếp. Ông bị trượt
chân, nhìn thấy ở phía trước ông cái hàng giậu cứ bao vòng hết lần này sang lần
khác quanh một điểm dừng nào đó, biểu thị một kết luận nào đó, nhìn thấy vợ và
con ông, nhìn thấy lại chậu hoa phong lữ thảo đỏ đã nhiều lần trang hoàng cho
những quá trình tư duy, và đã viết lại trên những chiếc lá của chúng, như thể
chúng là những mảnh giấy mà trên đó người ta viết nguệch ngoạc những dòng chữ
trong tiếng đọc vội vã – trong khi nhìn thấy tất cả những điều này, ông trượt
một cách êm ái vào sự suy tư được gợi lên bởi một bài báo trong tờ The Times về
con số những người Mỹ viếng thăm ngôi nhà của Shakespeare hàng năm. Nếu như
Shakespeare chưa bao giờ tồn tại, ông tự hỏi, thế giới có khác gì nhiều lắm so
với nó ngày nay không? Tiến trình của văn minh có phụ thuộc vào những nhân vật
vĩ đại hay không? Những con người bình thường hiện nay có tốt hơn so với thời
của những Pharaoh không? Tuy nhiên, những người bình thường, ông tự hỏi, có
phải là tiêu chí để từ đó chúng ta phán xét tầm mức của văn minh hay không? Có
lẽ là không. Có lẽ nền văn minh tốt đẹp nhất đòi hỏi sự tồn tại của một giai
cấp nô lệ. Người gác cửa tàu điện ngầm là một sự cần thiết muôn thuở. Ý nghĩ
này thật ghê tởm đối với ông. Ông lắc mạnh đầu. Để tránh nó, ông sẽ tìm ra một
cách nào đó để làm mất mặt ưu thế của các môn nghệ thuật. Ông sẽ lý luận rằng
thế giới tồn tại cho con người bình thường; rằng các môn nghệ thuật đơn giản
chỉ là một sự trang trí được gán lên đỉnh của đời người; chúng không thể hiện
nó. Cả Shakespeare cũng không cần thiết đối với nó. Không biết chính xác vì sao
ông lại muốn hạ bệ Shakespeare và hướng tới sự giải cứu cái con người đang đứng
vĩnh viễn ở cửa tàu điện ngầm, ông ngắt một chiếc lá từ hàng giậu. Tất cả những
điều này sẽ phải được trình bày trước những chàng trai ở trường đại học Cardiff
vào tháng sau, ông nghĩ; ở đây, trên sân nhà, ông chỉ cắt cỏ và dạo chơi (ông
vứt bỏ chiếc lá mà ông đã bứt một cách cáu kỉnh) như một người rời khỏi lưng
ngựa để hái một bó hoa hồng, hay nhét đầy vào túi mình những quả hạch khi anh
ta thoải mái cho ngựa đi nước kiệu qua những con đường làng và những cánh đồng
mà anh ta đã biết rõ từ thời thơ ấu. Tất cả đều quen thuộc; chỗ ngoặt này, cái
bục trèo cắt ngang qua những cánh đồng kia. Anh ta sẽ dành nhiều giờ trong một
buổi chiều, với cái ống tẩu, suy nghĩ ngược xuôi mọi lẽ về những con đường làng
và những con người bình dân xưa cũ quen thuộc, tất cả đều gắn vào lịch sử của
cái chiến dịch ở kia, cuộc đời của tay chính khách này ở đây, với những bài thơ
và những giai thoại, với những nhân vật nữa, nhà tư tưởng này, người lính nọ;
tất cả đều rất trong sáng rõ ràng; nhưng cuối cùng con đường làng, cánh đồng,
kẻ bình dân, cây quả hạch đầy trái và hàng giậu nở hoa dẫn anh ta tới chỗ ngoặt
xa hơn của con đường nơi anh ta luôn luôn xuống ngựa, cột con ngựa của mình vào
một thân cây, rồi tiếp tục đi bộ một mình. Ông tới rìa bãi cỏ và nhìn ra cái
vịnh bên dưới.
Chính số phận của ông, tính cách lạ thường của ông, dù ông
muốn có nó hay không, đã khiến cho ông đi ra một mảnh đất mà biển cả đang dần
dần nuốt mất, và đứng đó, một mình, như một con chim biển cô đơn. Chính năng lực
của ông, thiên tài của ông, đã khiến cho ông đột ngột vứt bỏ mọi thứ thừa thãi,
tự co rút và giảm thiểu chính mình để trông ông có vẻ trần trụi hơn và cảm thấy
tự do hơn, thậm chí về mặt vật chất, thế nhưng không hề mất đi chút cường độ
tinh thần nào, và cứ đứng như thế trên rẻo đất bé nhỏ của mình đối mặt với sự
ngu dốt của loài người, chúng ta không biết gì hết và biển cả đang nuốt dần
mảnh đất ta đang đứng bên trên – đó là định mệnh của ông, thiên tài của ông.
Nhưng sau khi đã xuống ngựa, vứt bỏ mọi điệu bộ và mọi thứ trang trí rẻ tiền,
mọi chiến tích về quả hạch và hoa hồng, và co rút lại khiến cho không chỉ danh
vọng của ông mà ngay cả cái tên riêng của ông cũng bị lãng quên đi bởi chính
ông, chỉ giữ lại ngay cả trong sự lẻ loi hiu quạnh đó một sự cảnh giác đã quét
sạch mọi bóng ma và viễn tượng, và chính trong cái lốt mà ông được khơi gợi từ
William Bankes (đôi lúc đôi nơi) và từ Charles Tansley (một cách quỳ lụy) và từ
vợ ông ngay bây giờ, khi bà ngẩng lên và thấy ông đang đứng ở rìa bãi cỏ, thâm trầm,
tôn kính, thương hại, và cả biết ơn, như một cái cọc cắm sâu xuống đáy của một
eo biển mà bên trên đó những con chim mòng biển đậu và những lượn sóng hân hoan
vỗ nhịp cho một cảm giác biết ơn đối với trách vụ mà nó tự nhận lấy trong việc
đơn độc đánh dấu cái eo biển giữa dòng nước lũ ngoài kia.
“Nhưng người cha của tám đứa con không có quyền chọn lựa.”
Ông lẩm bẩm thành tiếng, kết thúc, quay lại, thở dài, đưa mắt lên tìm kiếm hình
dáng của người vợ đang đọc truyện cho đứa con trai bé bỏng, nhồi thuốc vào ống
tẩu. Ông quay lưng khỏi hình ảnh về sự ngu dốt của con người, định mệnh của con
người và biển cả đang nuốt dần mảnh đất mà chúng ta đứng bên trên mà nếu ông có
thể chiêm ngắm một cách chăm chú có lẽ nó sẽ dẫn ông tới một điều gì đó; và
phát hiện ra rằng việc tìm sự nguôi khuây trong những điều vụn vặt là quá nhẹ
nhàng so với chủ đề uy nghiêm ngay lúc này đang ở trước mặt ông đến mức ông sẵn
sàng xóa nhòa đi niềm an ủi đó, phản kháng nó, như thể việc bị bắt gặp đang
hạnh phúc trong một thế giới đầy bất hạnh là một trong những tội ác ti tiện
nhất đối với một con người trung thực. Đúng thế; đa phần ông thuộc về phía hạnh
phúc; ông có vợ; ông có lũ con; ông đã hứa sẽ nói “đôi điều phi lý” trong thời
gian sáu tuần với những chàng trai trẻ ở Cardiff
về Locke[2],
Hume[3],
Berkeley[4]
và những nguyên nhân của Cách mạng Pháp. Nhưng điều này và niềm vui của ông
trong nó, sự vinh quang của ông trong những lời giảng của ông, trong bầu nhiệt
huyết của tuổi trẻ, trong vẻ đẹp của vợ ông, trong những cống phẩm được chuyển
tới ông từ các trường đại học Swansea, Cardiff, Exeter, Southampton,
Kidderminster, Oxford, Cambride – tất cả phải bị phản đối và che đậy dưới cụm
từ “nói những điều phi lý”, bởi lẽ, rốt cuộc ông đã không thực hiện được những
điều mà lẽ ra ông phải hoàn thành. Đó là một sự ngụy trang; đó là nơi ẩn náu
của một con người e sợ chính những cảm giác của mình, kẻ không thể nói: Đây là
điều tôi thích – đây là con người của tôi; và khá đáng thương cũng như đáng
ghét đối với William Bankes và Lily Briscoe, những người tự hỏi tại sao những
che đậy như thế lại là cần thiết; tại sao ông luôn cần tới lời ca tụng; tại sao
một người dũng cảm trong tư tưởng như thế lại quá hèn nhát trong cuộc sống;
thật kỳ lạ khi ông vừa đáng kính lại vừa đáng nực cười trong cùng một lúc.
Việc dạy học và giảng đạo nằm ngoài khả năng của con người,
Lily ngờ vực nói. (Cô đang dọn dẹp những đồ đạc của mình). Nếu bạn được tán
tụng, theo cách nào đó bạn sẽ thất bại thảm thương. Bà Ramsay cho ông ta những
gì ông ta yêu cầu một cách quá dễ dàng. Vậy thì sự thay đổi phải rất đáng ngại,
Lily nói. Ông ấy bước vào từ những quyển sách của ông ấy và thấy tất cả chúng
ta đang chơi những trò chơi và nói những chuyện phi lý. Hãy tưởng tượng sự thay
đổi từ những điều mà ông ta nghĩ đến sẽ như thế nào, cô nói.
Ông ta đang tiến về phía họ. Bây giờ ông ta dừng lại bất
động và đứng lặng nhìn ra biển cả. Bây giờ ông ta lại quay đi lần nữa.
9
Phải, ông Bankes nói, nhìn ông ta bước đi. Thật ngàn lần
đáng tiếc. (Lily đã nói gì đó về việc ông ta làm cô sợ hãi – ông ta thay đổi từ
tâm trạng này sang tâm trạng khác rất đột ngột). Phải, ông Bankes nói, thật
ngàn lần đáng tiếc rằng Ramsay không thể xử sự giống những người khác hơn chút
xíu. (Vì ông thích Lily Briscoe; ông có thể trao đổi về Ramsay với cô hoàn toàn
cởi mở). Chính vì lý do đó, ông nói, mà lũ thanh niên không đọc Carlyle[5].
Một lão già cáu kỉnh càu nhàu luôn nổi nóng nếu món cháo đặc bị lạnh. Vì sao
ông ta lại thuyết giảng chúng ta? ông Bankes hiểu rằng đó là điều mà những
người trẻ tuổi ngày nay nói. Thật ngàn lần đáng tiếc nếu bạn nghĩ, như ông ta,
rằng Carlyle là một trong những vị thầy vĩ đại của loài người. Lily xấu hổ nói
rằng cô chưa hề đọc Carlyle hồi còn đi học. Nhưng theo ý cô một người như ông
Ramsay rất có thể nghĩ rằng nếu ngón tay út của mình bị đau thì toàn thế gian
phải tới hồi tận số. Đó không phải là thứ mà cô quan tâm.
Vì ai có thể bị lừa bởi ông ta được chứ? Hoàn toàn công
khai, ông ta yêu cầu bạn tâng bốc ông ta, ngưỡng mộ ông ta, những mánh lới nhỏ
nhặt của ông ta chẳng lừa được ai cả. Cái mà cô không thích là sự hẹp hòi của
ông ta, sự mù lòa của ông ta, cô nói, nhìn về hướng ông ta.
“Hơi đạo đức giả phải không?” ông Bankes đề xuất, cũng nhìn
về hướng ông Ramsay, có phải là ông đã không suy nghĩ về tình bạn của mình, về
việc Cam từ chối tặng cho ông một bông hoa, về tất cả những đứa con trai và con
gái đó, và về ngôi nhà của chính ông, với đầy niềm an ủi, nhưng từ khi vợ ông
chết đi đã khá là quạnh quẽ? Tất nhiên
ông có công việc của mình… Đồng thời, ông muốn Lily cũng đồng ý rằng Ramsay,
như ông nói, “hơi đạo đức giả.”
Lily Briscoe tiếp tục dọn dẹp những cây cọ, nhìn xuống,
ngẩng lên. Ngẩng lên, ông ta kia rồi – ông Ramsay – đang tiến về phía họ, dáng
lắc lư, bất cẩn, lơ đãng, xa vắng. Hơi đạo đức giả? cô lặp lại. Ồ, không, kẻ
chân thật nhất, kẻ đúng đắn nhất (ông ta tới đây rồi), kẻ tốt nhất; nhưng, nhìn
xuống, cô nghĩ, ông ta say mê chính mình, ông ta chuyên chế, ông ta bất công;
và tiếp tục nhìn xuống, một cách cố tình, vì chỉ có như thế cô mới có thể tiếp
tục ở lại với gia đình Ramsay. Nếu ngẩng lên và nhìn họ một cách trực tiếp, cái
mà cô gọi là “cảm giác yêu thương” sẽ nhấn chìm họ. Họ trở thành một phần của
cái vũ trụ không có thật nhưng sâu sắc và thú vị, một thế giới được nhìn thông
qua những đôi mắt của tình yêu. Bầu trời gắn liền vào họ; lũ chim hót ca thông
qua họ. Và một điều thậm chí còn thú vị hơn, khi nhìn thấy ông Ramsay đang đi
ngược xuống và rút lui, còn bà Ramsay thì ngồi với James ở cửa sổ, vầng mây
đang chuyển động còn thân cây đang ngã bóng xuống, cô cảm thấy cuộc sống, hình
thành từ những sự kiện riêng biệt mà người ta lần lượt sống với chúng, trở nên
uốn cong và trọn vẹn như một lượn sóng nâng người ta lên rồi ném người ta xuống
với một tiếng vỗ ầm ào trên bờ biển.
Ông Bankes đang chờ cô trả lời. Và khi cô sắp nói một điều
gì đó để chỉ trích bà Ramsay, rằng cả bà ấy cũng có vẻ, theo cái kiểu của bà
ấy, độc đoán, hay từ ngữ nào đó tương tự, ông Bankes chợt biến việc đó thành
không cần thiết bằng trạng thái say mê của mình. Đó là một điều đáng quan tâm,
ở lứa tuổi bước sang sáu mươi của ông, sự sạch sẽ và khách quan của ông, và
chiếc áo choàng trắng của nhà khoa học dường như đang trùm lên người ông. Vì
việc ông đang nhìn đăm đăm bà Ramsay trong lúc Lily nhìn ông là một trạng thái
mê ly, ngang với tình yêu của hàng tá thanh niên, Lily cảm thấy thế (và có lẽ
bà Ramsay chưa bao giờ kích thích tình yêu của hàng tá thanh niên trẻ tuổi). Đó
là thứ tình yêu, cô nghĩ, giả vờ di chuyển bức vẽ của mình, đã được chưng cất
và tinh lọc; một thứ tình yêu không bao giờ nỗ lực giữ chặt lấy đối tượng của
nó; nhưng giống như loại tình yêu mà những nhà toán học dành cho những ký hiệu
của họ, hay những thi sĩ dành cho những ngôn từ của họ, hướng tới việc lan trải
chúng ra khắp thế gian và biến chúng trở thành một phần của lợi ích nhân loại.
Thật sự là như thế. Thế gian ở mọi ý nghĩa hẳn sẽ chia sẻ nó, nếu như ông
Bankes có thể nói vì sao người đàn bà đó khiến cho ông hài lòng đến vậy; vì sao
cảnh tượng bà đọc một câu chuyện cổ cho con trai lại tác động lên ông giống hệt
như một giải pháp về một vấn đề khoa học, giúp ông nghỉ ngơi trong vòng tay an
ủi của nó, và có một cảm giác, như khi ông chứng minh được một cái gì đó tuyệt
đối về hệ thống tiêu hóa của những loài cây cỏ, rằng sự dã man đã được thuần
hóa, sự thống trị của hỗn mang đã sụp đổ.
Một trạng thái mê ly như thế – vì người ta còn có thể gọi nó
bằng cái tên nào khác nữa? – khiến cho Lily Briscoe hoàn toàn quên bẳng điều mà
cô định nói. Nó chẳng có gì là quan trọng; một điều gì đó về bà Ramsay. Nó bị
lu mờ sau “trạng thái mê ly” này, ánh nhìn đăm đăm câm lặng này, điều mà cô
thấy rất đỗi biết ơn; vì không có gì khiến cho cô thấy an ủi, xoa dịu cô trong
mớ rối rắm phức tạp của cuộc đời, và cởi bỏ gánh nặng của nó một cách diệu kỳ
như quyền năng siêu phàm này, món quà tặng trời cho này, một trạng thái mà
người ta không thể quấy rầy trong khi nó đang tồn tại, giống như không thể phá
vỡ những tia nắng mặt trời đang rọi ngang qua sàn nhà.
Việc mọi người nên yêu như thế này, việc ông Bankes nên cảm
thấy điều này đối với bà Ramsay (cô lặng lẽ liếc nhìn ông) thật hữu ích, thật
cao quý. Cô chùi lần lượt từng cây cọ vào một mảnh giẻ cũ một cách đầy dụng ý.
Cô tìm chỗ ẩn núp khỏi lòng sùng kính bao trùm lên tất cả mọi người phụ nữ; cô
cảm thấy bản thân mình được ngợi ca. Cứ để ông ấy nhìn; cô sẽ xem lại bức tranh
của mình một lúc.
Cô có thể khóc lên được. Nó thật tệ, nó thật xấu, nó xấu vô
cùng! Dĩ nhiên, hẳn cô có thể thực hiện nó một cách hoàn toàn khác hẳn; màu sắc
có thể mỏng hơn và nhạt hơn; những đường nét có thể thanh tao hơn; hẳn đó là
cách mà Paunceforte đã nhìn thấy nó. Nhưng khi đó cô đã không nhìn thấy nó như
thế này. Cô nhìn thấy màu sắc cháy bùng trên một cái khung thép; ánh sáng của
cánh một con bướm đang nằm trên vòm một nhà thờ. Tất cả những thứ đó chỉ còn là
một vài dấu vết ngẫu nhiên trên bức vẽ. Và nó sẽ không bao giờ được nhìn thấy;
thậm chí không bao giờ được treo lên, và có tiếng thì thầm của Tansley trong
tai cô, “Đàn bà không thể vẽ, đàn bà không thể viết…”
Bây giờ thì cô nhớ ra điều mà cô định nói về bà Ramsay. Cô
không biết cô nên nói như thế nào; nhưng đó là một câu gì đó có tính phê phán.
Đêm hôm trước cô đã phiền lòng bởi một thái độ độc đoán. Nhìn cái cách ông
Bankes đăm đăm ngó bà ấy, cô nghĩ rằng không một phụ nữ nào có thể tôn thờ một
phụ nữ khác theo cách mà ông tôn thờ; họ chỉ có thể tìm nơi ẩn núp bên dưới cái
bóng mà ông Bankes đã mở rộng lên cả hai người bọn họ. Nhìn theo ánh mắt của
ông, cô thêm vào tia mắt khác biệt của mình, nghĩ rằng không còn ngờ gì nữa bà
ấy là người đáng yêu nhất (cúi đầu bên trên cuốn sách); có lẽ là người tốt
nhất; nhưng cũng khác với hình dáng hoàn hảo một người ta nhìn thấy ở đó. Nhưng
vì sao khác, và khác như thế nào? cô tự hỏi mình, cạo ra khỏi bảng màu tất cả
những cục màu xanh dương và xanh lá mà bây giờ đối với cô dường như chúng là
những cục đất không có sự sống bên trong, thế nhưng cô nguyện rằng ngày mai cô
sẽ đem tới cho chúng hơi thở, buộc chúng phải chuyển động, chảy tuôn, tuân theo
mệnh lệnh của cô. Nhưng bà ấy khác biệt như thế nào? Đâu là linh hồn bên trong
bà ấy, điều cốt lõi mà nhờ đó nếu bạn tìm thấy một chiếc găng tay nhàu nát trên
một chiếc ghế sofa, hẳn bạn sẽ biết, từ ngón tay vặn vẹo của nó, rằng nó là của
bà ấy? Bà ấy giống như một con chim tượng trưng cho tốc độ, một mũi tên tượng
trưng cho sự thẳng thắn. Bà ấy bướng bỉnh; bà ấy đòi hỏi cao (dĩ nhiên, Lily tự
nhắc nhở, mình đang nghĩ về những mối quan hệ giữa bà ấy với những người phụ
nữ, và mình là một cô gái trẻ hơn nhiều, một con người không quan trọng, sống ở
phố Brompton). Bà ấy mở những cửa sổ phòng ngủ. Bà ấy đóng những cửa ra vào.
(Cô cố gắng hình dung lại âm điệu của bà Ramsay trong đầu mình). Tới muộn vào
ban tối, với một tiếng gõ nhẹ vào cửa phòng ngủ của người ta, trùm kín người
trong một cái áo choàng lông cũ (vì nền tảng vẻ đẹp của bà luôn là thế – vội vàng
nhưng thích hợp), bà ấy sẽ diễn tả lại bất cứ chuyện gì – Charles Tansley đánh
mất cây dù của anh ta; ông Carmichael lê chân và khụt khịt; ông Bankes đang
nói, “Muối trong rau củ đã mất.” Bà khéo léo mô tả lại tất cả những điều này;
thậm chí nhăn mặt một cách thâm hiểm; rồi bước tới chỗ cửa sổ, giả vờ rằng bà
ấy phải đi – trời đã rạng, bà ấy có thể nhìn thấy mặt trời đang lên – rồi quay
nửa người trở lại, thân mật hơn, nhưng vẫn luôn cười lớn, khăng khăng rằng cô
phải, Minta phải, tất cả bọn họ phải kết hôn, vì trên khắp cõi thế gian này bất
cứ vinh quang nào cũng có thể lọt vào tay cô (nhưng bà Ramsay nào có đếm xỉa
cóc khô gì tới công việc vẽ vời của cô đâu), hoặc cô có thể chiến thắng bất cứ
cái gì (có lẽ bà Ramsay sẽ nhận được phần chia của mình trong những thắng lợi
đó), và tới đây bà trở nên buồn bã u sầu, quay trở lại chiếc ghế của mình,
không thể tranh luận gì về điều này: một phụ nữ không kết hôn (bà ấy nhẹ nhàng
nắm lấy tay cô một lúc), một người phụ nữ không kết hôn sẽ bỏ lỡ phần tốt đẹp
nhất của cuộc đời. Ngôi nhà dường như đầy những đứa trẻ con đang thiếp ngủ và
bà Ramsay lắng nghe; những ngọn đèn tỏa bóng và hơi thở đều đều.
Ồ, nhưng, Lily nói, cô còn có cha cô; nhà cô, thậm chí, nếu
như cô dám nói ra, công việc vẽ tranh của cô. Nhưng tất cả những thứ này dường
như quá bé mọn, quá trinh bạch so với chuyện kia. Thế nhưng, khi màn đêm tan
loãng đi, và những tia sáng trắng luồn qua những bức màn che cửa, thậm chí
thỉnh thoảng còn có một con chim hót líu lo trong vườn, tập trung lại toàn bộ
sự dũng cảm tuyệt vọng, cô thường tự ban cho mình một ngoại lệ khỏi quy tắc
thông thường; để tự biện hộ; cô thích ở một mình; cô thích là chính bản thân
mình; cô không được tạo ra cho việc đó, và thế là phải đáp lại một cái nhìn
nghiêm khắc từ đôi mắt sâu thẳm khôn dò đó, đối diện với sự khẳng nhận đơn giản
của bà Ramsay (bây giờ thì cô cũng giống như trẻ con) rằng Lily thân yêu của
bà, cô bé Brisk của bà, là một cô nàng ngốc nghếch. Thế rồi, cô nhớ, cô đã đặt
đầu mình lên đùi của bà Ramsay và cười to, cười sặc sụa, gần như phát cuồng lên
với ý nghĩ về việc bà Ramsay tự đứng ra đảm nhận trách nhiệm đối với những định
mệnh với sự bình thản bất di bất dịch mà cô hoàn toàn không thể hiểu. Bà ấy
ngồi đó, giản dị, nghiêm trang. Bây giờ bà đã khôi phục lại ý thức về mình –
đây là ngón tay vặn vẹo của chiếc găng tay. Nhưng người ta đã xâm nhập vào chốn
tôn nghiêm thầm kín nào rồi? Cuối cùng Lily Briscoe ngẩng đầu lên, và kia là bà
Ramsay, hoàn toàn không hiểu nổi vì sao cô lại phá ra cười, vẫn còn gánh vác
trách nhiệm, nhưng bây giờ thì đã xóa sạch mọi dấu vết của tính ngang ngạnh, và
thay vào đó, là một cái gì đó rõ ràng như khoảng không gian nơi cuối cùng những
đám mây cũng để lộ ra – khoảng không gian bé nhỏ của bầu trời đang thiếp ngủ
bên dưới vầng trăng.
Có phải đó là sự khôn ngoan? Có phải đó là tri thức? Một lần
nữa, có phải đó là sự dối lừa của vẻ đẹp, khiến tất cả những ý niệm của người
ta, giữa chặng đường tới chân lý, bị vướng vào một mạng lưới bằng vàng lóng
lánh? Hay bà ấy đã chôn kín trong lòng một bí mật nào đó mà Lily tin một cách
chắc chắn rằng nói cho cùng mọi người đều phải có, để thế giới tiếp tục tiến
lên. Mọi người không thể sống một cách rối rắm, cầm cự từng ngày như bà ấy.
Nhưng nếu họ biết, họ có thể nói cho người khác điều họ biết hay không? Ngồi
trên sàn nhà, đôi tay vòng quanh đầu gối của bà Ramsay, gần gũi hết mức trong
phạm vi có thể, cô mỉm cười khi nghĩ rằng bà Ramsay không thể nào hiểu nổi lý
do của áp lực đó, cô hình dung ra cách sắp xếp của những ngăn phòng tâm trí của
người phụ nữ mà về phương diện vật chất đang vuốt ve cô này; chúng giống như những
kho báu trong những lăng tẩm của các vị vua, những phiến đá khắc những dòng chữ
thiêng liêng mà nếu như người ta có thể đọc ra sẽ có thể dạy cho họ biết mọi
điều, nhưng chúng không bao giờ công khai lộ diện, không bao giờ được đưa ra
công chúng. Ở đó có nghệ thuật gì về tình yêu hay sự xảo trá đã biết mà nhờ đó
người ta băng qua những căn phòng bí mật? Công cụ nào để trở thành một, như
nước được rót vào một cái bình, với đối tượng mà người ta yêu quý? Thân thể,
hay tâm trí, có thể hòa trộn một cách tế vi vào những hành lang rắc rối của bộ
não? hay của trái tim? Tình yêu, như mọi người gọi nó, có thể biến cô và bà
Ramsay thành một? Vì cái mà cô khát khao không phải là tri thức mà là sự hợp
nhất, không phải là những dòng chữ trên những phiến đá, không phải những gì có
thể được viết ra bằng bất kỳ thứ ngôn ngữ nào mà những người đàn ông biết, mà
là bản thân sự thân tình, và đó cũng chính là tri thức, cô đã nghĩ thế khi tựa
đầu trên đầu gối của bà Ramsay.
Chẳng có gì xảy ra hết. Chẳng có gì! Chẳng có gì! Khi cô tựa
đầu lên đầu gối của bà Ramsay. Thế nhưng cô biết tri thức và sự khôn ngoan ẩn
chứa trong trái tim của bà ấy. Vậy thì làm sao người ta có thể biết điều này
hay điều nọ về mọi người, cô tự hỏi, khi họ cứ kín như bưng? Chỉ như một con
ong, bị lôi kéo bởi một mùi vị ngọt ngào sắc sảo trong không khí nhưng không
thể tiếp xúc bằng xúc giác hay vị giác, người ta lui tới cái tổ hình vòm trải
dài khắp các bãi sa mạc không khí trên khắp những quốc gia của thế gian, và rồi
lui tới những cái tổ ong với tiếng rì rầm và những âm thanh sôi nổi của chúng;
những cái tổ ong, đó là mọi người. Bà Ramsay đứng lên. Lily đứng lên. Bà Ramsay
đi. Vì những ngày tháng đang vây quanh bà ấy – như sau một giấc mơ một sự thay
đổi tế vi nào đó đã được cảm nhận trong cá nhân mà người ta mơ thấy – còn sâu
sắc hơn bất cứ điều gì bà ấy nói, âm thanh của tiếng thì thầm, và khi bà ấy
ngồi trong cái ghế đan bằng cành liễu bên trong cửa sổ phòng khách, dưới đôi
mắt của Lily, bà ấy khoác một hình dáng uy nghi; hình dáng của một mái vòm.
Tia nhìn này song hành với tia nhìn của ông Bankes, hướng
thẳng tới bà Ramsay đang ngồi đọc ở đó với thằng James ở đầu gối của bà. Nhưng
giờ đây trong lúc cô vẫn còn đang nhìn, ông Bankes đã thực hiện xong điều đó.
Ông mang đôi kính vào. Ông lùi trở lại. Ông giơ bàn tay của mình lên. Ông hơi
nheo đôi mắt xanh trong sáng của mình khi Lily, đã tỉnh táo trở lại, chợt nhìn
thấy điều mà ông đang hướng tới, và nhăn mặt như một con chó nhìn thấy một bàn
tay giơ lên để đánh nó. Lẽ ra cô đã giật bức tranh của mình ra khỏi giá vẽ,
nhưng cô tự nhủ với mình, Người ta phải nhìn thấy nó. Cô dốc hết sức để chịu
đựng sự thử thách đáng sợ là có ai đó nhìn vào bức tranh của cô. Người ta phải
nhìn thấy, cô nói, người ta phải. Và nếu nó phải được nhìn thấy thì ông Bankes
ít đáng ngại hơn bất kỳ ai khác. Nhưng việc đôi mắt của bất kỳ một kẻ nào đó
nhìn thấy phần lắng đọng của ba mươi ba năm trong đời cô, phần lắng đọng của sự
sống hàng ngày hòa lẫn với một cái gì đó bí ẩn hơn những gì mà cô từng thốt lên
hay thể hiện trong suốt những ngày này, là một nỗi thống khổ. Đồng thời nó cũng
vô cùng kích thích.
Không gì có thể bình thản và lặng lẽ hơn thế. Cầm lấy một
con dao nhíp, ông Bankes gõ cái cán dao bằng xương lên bức tranh. Cô muốn biểu
thị điều gì với hình tam giác màu tím, “ngay ở đó”? ông hỏi.
Đó là bà Ramsay đang đọc cho James nghe, cô nói. Cô biết sự
phản đối của ông, rằng chả có ai có thể nói đó là hình dáng của một con người.
Nhưng cô không cố gắng vẽ cho giống bao giờ, cô nói. Cô thể hiện chúng vì lý do
gì? ông hỏi. Thật sự là vì sao? – ngoại trừ một việc rằng nếu ở đó, trong cái
góc đó, vẫn đang sáng sủa, thì ở đây, cô cảm thấy sự cần thiết của bóng tối.
Đơn giản, rõ ràng, tầm thường như chính nó, ông Bankes nhận thấy. Người mẹ và
đứa con – những đối tượng của lòng sùng kính phổ quát, và trong trường hợp này
người mẹ nổi tiếng vì vẻ đẹp của bà ta – có thể bị giảm thiểu đi, ông suy ngẫm,
thành một cái bóng màu tím mà không hề có chút gì bất kính.
Nhưng bức tranh không nói về họ, cô nói. Hoặc, không theo
cách cảm nhận của ông. Còn có những cách cảm nhận khác mà trong đó người ta có
thể sùng kính họ. Bởi một bóng tối ở đây và một ánh sáng ở đó, chẳng hạn. Sự
bày tỏ lòng tôn kính của cô nằm dưới hình thức đó, nếu, như cô mơ hồ tin tưởng,
một bức tranh phải là một sự bày tỏ lòng tôn kính. Một người mẹ và một đứa con
có thể bị giảm trừ thành một cái bóng mà không hề bất kính. Một ánh sáng ở đây
đòi hỏi phải có một bóng tối ở kia. Ông cân nhắc xét suy. Ông đón nhận nó theo
tinh thần khoa học với niềm tin tưởng trọn vẹn. Sự thật là tất cả những định
kiến của ông đều nằm ở phía khác, ông giải thích. Bức tranh lớn nhất trong
phòng khách của ông, mà những họa sĩ từng ca ngợi, có giá trị cao hơn cái giá
mà ông đã trả, thể hiện những cây anh đào nở hoa trên bờ sông Kennet. Ông đã
trải qua tuần trăng mật của mình trên những bờ sông Kennet, ông nói. Lily phải
tới và ngắm bức tranh đó, ông nói. Nhưng bây giờ – ông quay lại, với đôi kính giương lên cùng cái nhìn thẩm định
mang tính khoa học vào bức vẽ của cô. Vấn đề là một trong những mối quan hệ của
các hình khối, của những điểm sáng và điểm tối, mà, nói một cách trung thực,
ông chưa từng chú ý tới trước đó, ông muốn được giải thích – cô muốn nói lên
điều gì vậy? Và ông chỉ tới cảnh tượng trước mặt họ. Cô nhìn. Cô không thể bày
tỏ với ông điều mà cô muốn nói lên, thậm chí không thể tự mình nhìn thấy nó nếu
không có một chiếc cọ trong tay. Một lần nữa, cô quay trở lại vị trí vẽ cũ với
đôi mắt mờ mịt và một thái độ lơ đãng, kềm nén lại mọi ấn tượng của mình với tư
cách là một người phụ nữ xuống một mức độ phổ quát hơn; một lần nữa trở nên
thấp kém hơn quyền năng mà có lần cô đã nhìn thấy một cách rõ ràng và bây giờ
phải mò mẫm kiếm tìm giữa những hàng giậu, những ngôi nhà, những bà mẹ và những
đứa con – bức tranh của cô. Đó là vấn đề, cô nhớ lại, làm thế nào để nối kết
khối hình bên tay phải với khối hình bên tay trái. Cô có thể làm điều đó bằng
cách kéo dài đường nét của nhánh cây, hoặc phá vỡ khoảng trống cận cảnh bằng
một đối tượng (có lẽ là James). Nhưng mối nguy cơ là khi làm điều đó tính thống
nhất của tổng thể có thể bị phá vỡ. Cô dừng lại; cô không muốn ông phải buồn
lòng; cô nhẹ nhàng tháo bức tranh khỏi giá vẽ.
Nhưng nó đã bị nhìn thấy; nó đã bị tước đoạt khỏi cô. Người
đàn ông này đã chia sẻ với cô một cái gì đó cực kỳ thân thiết. Và, thầm cám ơn
ông Ramsay, bà Ramsay, cùng thời khắc và nơi chốn đó, tin tưởng rằng thế giới
có một quyền năng mà cô chưa từng nghĩ tới – rằng người ta có thể đi xuống cái
hành lang đó, không còn đơn độc lẻ loi nữa, mà là tay trong tay với một người
nào đó – cái cảm giác lạ lùng nhất và phấn khích nhất trên đời – cô cài cái
then hộp đồ nghề vẽ lại, một cách chắc chắn hơn mức cần thiết, và cái vòng khía
dường như bao quanh mãi mãi hộp đồ nghề vẽ, bãi cỏ, ông Bankes, và con bé Cam
hoang dã tinh nghịch đang chạy vụt qua.
10
Cam lướt sát rạt qua cái giá vẽ; nó không dừng lại để chào
ông Bankes và Lily Briscoe; dù ông Bankes, người hẳn rất mong muốn có một đứa
con gái của chính mình, chìa bàn tay ra; nó cũng chẳng dừng lại vì cha nó,
người mà nó cũng chạy lướt qua sát bên; cũng không vì mẹ nó, người gọi to “Cam! Mẹ muốn con lại đây một chút!” trong lúc nó đang
chạy qua. Nó chạy vụt đi như một con
chim, một viên đạn, hay một mũi tên, bị thôi thúc bởi một khát khao nào đó, bị
bắn đi bởi một ai đó, tới một phương hướng nào đó, ai là người có thể nói được
điều này? Gì thế, gì thế? Bà Ramsay tự hỏi, dõi mắt nhìn theo nó. Có thể đó là
một viễn tượng – về một con sò,
một chiếc xe cút kít, hay một vương quốc thần tiên ở phía ngoài hàng giậu; hay
cũng có thể đó là niềm vui tốc độ; không ai biết cả. Nhưng khi ông Ramsay gọi
lần thứ hai “Cam!” con bé dừng phắt lại, và Cam chầm chậm quay trở lại chỗ mẹ
nó, tiện tay kéo theo một chiếc lá.
Nó đang mơ tới điều gì, bà Ramsay tự hỏi khi thấy nó đứng đó
trầm tư với một suy nghĩ nào đó của riêng nó, khiến bà phải lặp lại thông điệp
hai lần – hỏi bà Mildred xem anh Andrew, chị Doyle và anh Rayley có quay về hay
chưa? Những lời của bà dường như bị buông rơi xuống một cái giếng, nơi mà, nếu
nước trong, chúng cũng bị bóp méo một cách khác thường đến nỗi ngay cả khi
chúng đã chìm xuống, người ta vẫn nhìn thấy chúng co giãn vặn vẹo để giúp trời
đất biết cái khuôn mẫu nào trên nền tâm trí của đứa trẻ. Bé Cam
sẽ trao cho người đầu bếp thông điệp gì? Bà Ramsay tự hỏi. Và thật sự chỉ bằng
cách kiên nhẫn chờ đợi rồi nghe thấy rằng có một bà cụ trong bếp với đôi má rất
đỏ đang uống canh từ một cái tô, cuối cùng bà Ramsay mới nghĩ ra rằng theo bản
năng, con bé đã học thuộc như vẹt một cách hoàn toàn chính xác những lời của
Mildred và giờ đây, nếu người ta chờ đợi, nó sẽ lặp lại chúng bằng một giọng
nói ê a vô vị. Vừa đứng bằng một chân, chuyển từ chân này sang chân khác, Cam vừa lặp lại những lời đó, “Không, họ chưa về, và con
đã bảo Ellen dẹp trà đi.”
Vậy là Minta Doyle và Paul Rayley chưa về tới. Việc đó chỉ
có một ý nghĩa duy nhất, bà Ramsay nghĩ. Con bé phải chấp nhận anh ta, hoặc
phải từ chối anh ta. Việc đi ra ngoài tản bộ sau bữa trưa, dù có thằng Andrew
đi cùng họ, có thể mang ý nghĩa gì? Ngoại trừ rằng con bé đã quyết định, một
cách đúng đắn, bà Ramsay nghĩ (và bà rất, rất quý mến Minta), chấp nhận anh
chàng dễ thương đó, dù anh ta có thể không lỗi lạc; bà nghĩ tiếp, nhận ra rằng
James đang kéo áo bà, muốn bà tiếp tục đọc lớn câu chuyện Vợ chồng người ngư
phủ, trong thâm tâm mình, bà thích những kẻ khờ dại hơn nhiều so với những
gã đàn ông thông minh viết những bản luận văn; chẳng hạn như Charles Tansley.
Dù sao đi nữa, cho tới lúc này chuyện đó phải xảy ra, theo cách này hay cách
khác.
Nhưng bà đọc, “Sáng hôm sau, người vợ thức dậy trước, và
trời vừa mới rạng đông, từ giường mình bà ta nhìn thấy vùng quê xinh đẹp trải
ra trước mắt. Chồng bà ta vẫn còn nằm duỗi người…”
Nhưng giờ đây làm thế nào Minta có thể nói rằng nó sẽ không
chấp nhận anh ta? Không, nếu nó đã đồng ý dành trọn những buổi chiều để thơ
thẩn khắp vùng một mình – vì Andrew sẽ bỏ đi, đuổi theo những con cua của nó –
nhưng có lẽ Nancy
đi cùng với chúng. Bà cố nhớ lại cảnh tượng chúng đứng ở cửa phòng khách sau
bữa ăn trưa. Chúng đứng đó, nhìn lên bầu trời, tự hỏi về thời tiết, và bà đã
nói, phần để giúp chúng che giấu sự thẹn thùng, phần để khuyến khích chúng đi
dạo (vì bà rất thông cảm cho Paul), “Chả có đám mây nào trong vòng vài dặm,”
nói tới đây bà có thể cảm thấy anh chàng Tansley bé nhỏ, người đã đi theo họ ra
ngoài, đang cười khẩy. Nhưng bà làm thế là có dụng ý. Bà không thể biết chắc Nancy có ở đó hay không,
bà nhìn từ người này sang người kia với đôi mắt của tâm hồn.
Bà đọc tiếp: “Chà, mình à,” người đàn ông nói, “tại sao
chúng ta phải làm vua? Tôi không muốn làm vua.” “Tốt,” người vợ nói, “nếu ông
không làm vua thì tôi sẽ làm; hãy đi tới chỗ con Cá bơn, vì tôi sẽ làm vua.”
“Con vào nhà trong hay ra ngoài chơi đi Cam,” bà nói, biết
rằng Cam chỉ bị thu hút bởi từ “cá bơn” và chỉ trong khoảnh khắc nó sẽ trở nên
bồn chồn và sẽ đánh nhau với James như thường lệ. Cam
vọt ra ngoài. Bà Ramsay tiếp tục đọc, nhẹ nhõm, vì bà và James có cùng sở thích
và thấy dễ chịu khi ở bên nhau.
“Khi ông ta tới biển, trời hoàn toàn tối mịt, mặt nước cuộn
trào từ bên dưới, và có mùi hôi thối. Ông ta bước tới cạnh nó và nói,
‘Cá bơn, cá bơn trong biển cả,
Cầu xin mi hãy tới bên ta;
Vì bà Ilsabil vợ tốt của ta,
Muốn những thứ ta không hề muốn.’”
“Được, vậy bà ta muốn gì?” Cá bơn nói. Lúc này họ đang ở
đâu? bà Ramsay tự hỏi, vừa đọc vừa suy nghĩ, trong cùng một lúc, một cách khá
dễ dàng; vì câu chuyện về hai vợ chồng người ngư phủ cũng giống như tiếng đàn
bass đệm cho một âm điệu mà thỉnh thoảng đột nhiên dâng cao lên thành giai điệu
nhạc. Và khi nào thì bà sẽ được kể lại? Nếu không có gì xảy ra, bà sẽ phải nói chuyện
một cách nghiêm túc với Minta. Vì con bé ấy không thể đi thơ thẩn khắp vùng
quê, ngay cả khi có Nancy
đi cùng chúng (bà cố thêm lần nữa, một cách không thành công, để hình dung
chuyến trở về dọc theo con đường mòn của chúng, và để đếm chúng). Bà có trách
nhiệm với cha mẹ của Minta – Cú Mèo và Que Cời Lò. Những biệt danh mà bà đặt
cho họ hiện lên trong tâm trí bà khi bà đọc. Cú Mèo và Que Cời Lò – phải, họ sẽ
phiền lòng nếu nghe thấy – và chắc chắn là họ sẽ nghe thấy – rằng Minta, đang
sống với gia đình Ramsay, đã bị nhìn thấy vân vân, vân vân, vân vân. “Ông ta
mang một bộ tóc giả trong Hạ viện còn bà ta thì khéo léo hỗ trợ cho ông ta từ
trên đầu cầu thang,” bà lặp lại, quét họ ra khỏi tâm trí mình bằng một cụm từ
mà, khi quay về từ một bữa tiệc, bà đã nói để giúp vui cho chồng mình. Trời ơi,
Trời ơi, bà Ramsay tự nhủ, làm thế nào mà họ sinh ra cô con gái vô lý này? Cái
con bé Minta nghịch ngợm như con trai này, luôn mang một chiếc vớ thủng lỗ? Làm
thế nào con bé tồn tại được trong bầu không khí phô trương đó, nơi mà người hầu
gái luôn luôn cầm cái đồ hốt rác để gom cát mà con vẹt đã vung vẩy khắp nhà, và
cuộc chuyện trò cà riềng cà tỏi hầu như chỉ nói về những thành tích – thú vị,
có lẽ thế, nhưng nói cho cùng thì quá hạn chế – của con chim đó? Lẽ tự nhiên, người ta đã mời bà ăn trưa, uống
trà, ăn tối, cuối cùng là ở với họ tại Finlay, mà kết cục là một vụ xích mích
với Cú Mèo, mẹ của con bé, và nhiều cuộc viếng thăm hơn, nhiều cuộc cà riềng cà
tỏi hơn, nhiều cát hơn, và thật sự vào cuối bữa tiệc, bà đã kể nhiều chuyện láo
toét về những con vẹt đến mức đủ để sống cả một đời với chúng (bà đã nói thế
với chồng bà đêm đó, khi trở về từ bữa tiệc). Tuy nhiên, Minta đã đến… Phải,
con bé đã đến, bà Ramsay nghĩ, ngờ rằng có một cái gai nào đó trong mớ bòng
bong rối rắm của ý nghĩ này; và hóa ra nó là đây: một người phụ nữ đã có lần
cáo buộc bà về tội “cướp khỏi bà ta những tình cảm của con gái bà ta”; một điều
gì đó mà bà Doyle đã nói khiến bà nhớ lại lời buộc tội đó. Muốn thống trị, muốn
can thiệp, buộc mọi người làm theo điều mà bà muốn – đó là lời buộc tội chống
lại bà, và bà nghĩ nó quá bất công. Làm sao bà có thể không tỏ ra “như thế”?
Không ai có thể buộc tội bà về việc gây đau đớn để tạo ấn tượng. Bà vẫn thường
xấu hổ về sự xoàng xỉnh của chính mình. Bà không độc đoán, cũng chẳng chuyên
chế chi hết cả. Về những thứ bệnh viện và cống rãnh và sản xuất bơ sữa thì có.
Về những chuyện như thế bà thật sự cảm thấy đam mê, và ắt hẳn sẽ, nếu có cơ
hội, tóm lấy gáy của mọi người và buộc họ phải nhìn xem. Trên khắp hòn đảo
không có một bệnh viện nào hết. Đó là một sự ô nhục. Sữa được giao ở cửa nhà
bạn tại London
chắc chắn là nâu xỉn vì bụi bẩn. Hẳn nó phải được sản xuất một cách bất hợp
pháp. Một trại sản xuất bơ sữa hiện đại và một bệnh viện ở đây – đó là hai việc
mà bà muốn tự mình thực hiện. Nhưng bằng cách nào? Với tất cả lũ con nheo nhóc
này ư? Khi chúng lớn hơn, có lẽ bà sẽ có thời gian; khi tất cả bọn chúng đã tới
tuổi đến trường.
Ồ, nhưng bà không bao giờ muốn James lớn lên thêm một ngày
nào! Cả Cam cũng thế. Bà muốn giữ hai đứa bé này mãi mãi như hiện tại, những
con quỷ nghịch ngợm, những thiên sứ của niềm vui, để không bao giờ nhìn thấy
chúng lớn lên thành những con quái vật chân dài. Không gì có thể bù đắp cho sự
tổn thất. Ngay bây giờ, khi bà đang đọc cho James nghe, “và có nhiều người lính
mang theo trống định âm và kèn trumpet,” và đôi mắt nó thẫm lại, tại sao chúng
lại phải lớn lên và đánh mất tất cả những thứ đó? Nó là đứa bé có khả năng
thiên phú nhất, nhạy cảm nhất trong lũ con của bà. Nhưng tất cả, bà nghĩ, đều
tràn đầy hứa hẹn. Prue, một thiên thần hoàn hảo đối với những người khác, và
đôi khi, nhất là vào ban đêm, bà phải nín thở trong khoảnh khắc vì vẻ đẹp của
nó. Andrew – ngay cả chồng bà cũng phải thừa nhận rằng tài năng về toán học của
nó rất đặc biệt. Và Nancy và Roger, cả hai đứa chúng nó đều là những tạo vật
hoang dã, rong chơi tha thẩn khắp vùng suốt cả ngày. Còn về phần Rose, miệng nó
to quá, nhưng đôi bàn tay nó thật diệu kỳ. [6]Rose
may những chiếc váy; làm ra mọi thứ; chẳng hạn những chiếc bàn với cách bày trí
đẹp nhất, những lọ hoa, bất cứ thứ gì. Bà không thích việc Jasper bắn chim;
nhưng đây chỉ là một giai đoạn; tất cả chúng nó đều trải qua những giai đoạn.
Tại sao, bà hỏi, ép nhẹ cằm mình vào đầu James, chúng lại phải lớn thật nhanh?
Tại sao chúng lại phải tới trường? Bà muốn mình luôn có một em bé. Bà hạnh phúc
nhất khi bế một em bé trong tay. Vậy thì mọi người cứ việc nói rằng bà là kẻ
chuyên chế, độc đoán, hách dịch, tùy ý họ; bà chả quan tâm. Và, đưa đôi môi hôn
nhẹ vào mái tóc James, bà nghĩ, nó sẽ không bao giờ hạnh phúc như thế này lần
nữa, nhưng bà tự ngăn mình lại, nhớ rằng nếu bà nói thế thì chồng bà sẽ tức
giận ra sao. Tuy nhiên, đúng là như vậy. Bây giờ chúng đang hạnh phúc hơn bao
giờ hết. Một bộ tách uống trà giá mười xu sẽ làm cho Cam
vui sướng suốt nhiều ngày. Bà nghe thấy tiếng chúng dậm chân và nói bi bô khi
chúng thức giấc ở tầng trên. Chúng chạy ào xuống dọc hành lang. Rồi cánh cửa mở
bung ra và chúng ùa vào, tươi tắn như những đóa hoa hồng, nhìn chằm chặp, náo
nức, như thể việc đi vào phòng ăn sau bữa điểm tâm, mà chúng thực hiện hàng
ngày trong đời chúng, là một sự kiện cực kỳ đối với chúng, vân vân, và sự kiện
này nối tiếp sự kiện kia, suốt cả ngày dài, cho tới khi bà lên gác để chúc
chúng ngủ ngon, và thấy chúng rúc vào những chiếc giường như những con chim nằm
giữa những khóm lá anh đào và mâm xôi, vẫn còn bịa ra những câu chuyện vu vơ
nào đó – một điều gì đó mà chúng đã nghe, một thứ gì đó mà chúng đã nhặt được
trong vườn. Cả bọn đều có những kho báu bé nhỏ của chúng… Thế là bà đi xuống và
nói với chồng mình, Tại sao chúng lại phải lớn lên và đánh mất đi tất cả những
điều này? Chúng sẽ chẳng bao giờ có lại hạnh phúc như thế nữa. Và ông ấy nổi
giận. Vì sao cứ nhìn đời một cách u ám như thế chứ? ông ấy nói. Điều đó không
hợp lý. Vì điều đó kỳ quặc; Và bà tin đúng là như thế; rằng trên tổng thể, với
mọi nỗi u sầu tuyệt vọng của mình ông lại hạnh phúc hơn, nhiều hy vọng hơn bà.
Ít bị phơi bày trước những lo lắng của nhân loại hơn – có lẽ là thế. Ông ấy
luôn có công việc để lại đắm chìm vào đó. Cũng không phải bà “bi quan” như ông
buộc tội. Chỉ là bà nghĩ tới cuộc đời – và một dải thời gian nhỏ bé tự hiển
hiện lên trước mắt bà – và cái tuổi năm mươi của bà. Nó ở đó trước mắt bà –
cuộc đời. Cuộc đời, bà nghĩ – nhưng bà không kết thúc ý nghĩ của mình. Bà nhìn
vào cuộc đời, vì bà có một cảm giác rõ ràng về nó ở đó, một cái gì đó có thật,
một cái gì đó riêng tư, mà bà không chia sẻ được cả với chồng lẫn mấy đứa con
của mình. Có một kiểu chuyển giao nào đó diễn ra giữa hai bên, trong đó bà là
một phía và cuộc đời ở phía kia, và bà luôn cố nhận lấy phần tốt hơn của nó,
như nó là của bà; và đôi khi hai bên hòa đàm (khi bà ngồi một mình); bà nhớ, đã
có nhiều xen hòa giải tuyệt vời; nhưng đa phần, thật lạ lùng, bà phải thừa nhận
rằng bà cảm thấy cái mà bà gọi là cuộc đời này thật kinh khủng, đầy thù địch,
và sẽ nhanh chóng vồ lấy bạn nếu bạn cho nó một cơ hội. Có những vấn đề muôn
thuở: nổi thống khổ; chết chóc; nghèo túng. Thậm chí ngay ở đây cũng luôn luôn
có một người phụ nữ chết vì bệnh ung thư. Thế nhưng bà đã bảo với tất cả những
đứa con của mình, Các con phải vượt qua tất cả những thứ này. Bà thường xuyên
nói điều này với tám con người (và hóa đơn cho cái nhà kính sẽ là năm mươi
bảng). Vì lý do đó, biết phía trước họ là gì – tình yêu và tham vọng và đau khổ
một mình ở những nơi đáng sợ – bà thường có cảm giác, Vì sao chúng phải lớn lên
và đánh mất tất cả những điều này? Và rồi bà tự nhủ với mình, vung thanh gươm
của bà ra trước cuộc đời, Vô lý. Chúng sẽ hoàn toàn hạnh phúc. Và bà ngồi đây,
bà suy ngẫm, lại cảm thấy cuộc đời khá là độc ác, khiến cho Minta kết hôn với
Paul Rayley; bởi lẽ bất chấp bà có thể cảm thấy thế nào về quan hệ hôn nhân của
chính mình, bà đã có những trải nghiệm không nhất thiết phải xảy ra với một ai
khác (bà không kể tên chúng ra với chính mình); bà bị thôi thúc, quá nhanh
chóng, bà biết thế, gần như thể nó cũng là một lối thoát cho chính bản thân bà,
khi nói rằng mọi người phải kết hôn; mọi người phải có con cái.
Bà có sai lầm về việc này không, bà tự hỏi, ôn lại cách hành
xử của mình trong một hai tuần qua, và tự hỏi thật ra bà có đặt bất kỳ áp lực
nào lên Minta hay không khi buộc con bé phải quyết định, nó chỉ mới hai mươi
bốn tuổi. Bà thấy khó chịu. Không phải bà đã từng cười chế giễu chuyện đó hay
sao? Có phải bà lại quên rằng bà có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với mọi người? Ồ, hôn
nhân cần mọi kiểu phẩm chất (hóa đơn cho căn nhà kính sẽ là năm mươi bảng);
trong đó có một thứ – bà không
cần phải gọi tên nó ra – có tính chất cốt yếu; thứ mà bà có với chồng mình. Họ có
thứ đó hay không?
“Rồi ông ta mặc quần vào và bỏ chạy như một người điên,” bà
đọc. “Nhưng ngoài biển một cơn bão lớn đang nổi lên và thổi mạnh đến nỗi ông ta
hầu như không thể kềm được đôi chân; những ngôi nhà, cây cối lung lay chao đảo,
những ngọn núi rung rinh, những tảng đá rơi xuống biển, bầu trời đen sầm thăm
thẳm, và sấm sét đùng đùng nổ, rồi biển ập vào với những ngọn sóng cao như
những tháp nhà thờ và những ngọn núi, và bọt tung trắng xóa khắp các đầu ngọn
sóng.”
Bà lật sang trang; chỉ còn vài dòng nữa, vì thế bà sẽ kết
thúc câu chuyện, dù đã quá giờ lên giường ngủ. Đã khá muộn rồi. Ánh sáng trong
vườn nói với bà điều đó; màu trắng của những bông hoa cùng một thứ gì đó xam
xám trong đám lá kết hợp với nhau, khuấy động trong bà một cảm giác bồn chồn lo
lắng. Thoạt tiên bà không thể nghĩ ra đó là do cái gì. Rồi bà chợt nhớ ra;
Paul, Minta và Andrew chưa trở về. Bà triệu tập nhóm trẻ còn lại tới trước mặt
mình, trên sân hiên ngay trước cửa phòng khách, và đứng ngẩng nhìn lên bầu
trời. Andrew có mang theo tấm lưới và cái giỏ. Nghĩa là nó sẽ bắt cua và các
thứ. Nghĩa là nó sẽ trèo ra một tảng đá; nó sẽ bị đứt chân đứt tay. Hoặc trở về
một mình trên một trong những con đường mòn bên trên vách đá, một trong số
chúng có thể khá trơn trợt. Nó sẽ té lăn quay và bị va đập. Trời đã sụp tối
hoàn toàn.
Nhưng bà không để cho giọng nói của mình thay đổi chút nào
khi kết thúc câu chuyện, và bổ sung thêm những lời cuối khi gấp cuốn sách lại,
như thể bà đã tự nghĩ ra chúng, mắt nhìn vào mắt của James: “Và họ sống ở đó
cho tới tận bây giờ.”
“Thế là hết chuyện,” bà nói, và nhìn thấy trong mắt thằng
bé, khi sự thú vị của câu chuyện đã tan đi, có một thứ gì đó thay chỗ cho điều
đó; một thứ gì đó đầy thắc mắc, nhợt nhạt, như ánh phản chiếu của một ngọn đèn,
và ngay lập tức khiến cho ánh mắt của James trở nên đăm chiêu và khác lạ. Bà
xoay người ngó qua cái vịnh, và ở đó, chắc như ăn bắp, ánh sáng của ngọn hải
đăng đang liên tục quét qua những lượn sóng, đầu tiên là hai luồng ngắn rồi tới
một luồng dài. Nó đã được thắp lên.
Chỉ giây lát nữa nó sẽ hỏi bà, “Chúng ta sẽ ra ngọn hải đăng
chứ mẹ?” Và bà sẽ phải trả lời, “Không, ngày mai thì không; cha con bảo là
không.” Thật may mắn, Mildred đã tới đón chúng, và sự ồn ào làm chúng xao lãng.
Nhưng nó vẫn ngoái nhìn lại khi Milfred bế nó đi, và bà chắc chắn rằng nó đang
thầm nghĩ, ngày mai chúng ta sẽ không ra ngọn hải đăng; và bà nghĩ, suốt đời
mình, nó sẽ ghi nhớ tất cả những điều này.
11
Không, bà vừa nghĩ, vừa gom lại những bức hình mà nó đã cắt
ra – một cái tủ lạnh, một cái máy cắt cỏ, một quý ông mặc dạ phục – trẻ con
không bao giờ quên. Vì lý do này, những gì người ta đã nói, và những gì người
ta đã làm, là rất quan trọng, và thật là nhẹ nhõm khi chúng đã đi ngủ. Bởi bây
giờ bà không cần nghĩ tới bất kỳ ai cả. Bà có thể là chính mình, được ở một
mình. Và điều mà bà thường cảm thấy cần thiết lúc này là suy nghĩ; vâng, thậm
chí không chỉ suy nghĩ. Mà là im lặng; là được ở một mình. Mọi bản thể và mọi
hành vi mở rộng, lấp lánh, lên tiếng, tan biến; và người ta co lại, với một cảm
giác trang trọng, để là chính bản thân, một cái lõi hình nêm của bóng tối, một
cái gì đó vô hình đối với những người khác. Dù bà vẫn tiếp tục đan và ngồi
thẳng, bà cảm nhận về bản thân mình như thế; và cái bản ngã này sau khi đã cởi
bỏ những thứ gắn liền với nó trở nên tự do cho những cuộc phiêu lưu kỳ lạ nhất.
Khi sự sống chìm xuống trong khoảnh khắc, phạm vi kinh nghiệm dường như trở nên
vô hạn. Và cái cảm giác về những tiềm năng vô hạn định này luôn luôn có ở mọi
người, bà cho là vậy; người nọ kế tiếp người kia, bà, Lily, Augustus
Carmichael, phải cảm thấy, ngoại diện của chúng ta, những điều mà qua đó bạn
biết về chúng tôi, chỉ đơn giản giống trẻ con. Ở bên dưới, nó là bóng tối tuyệt
đối, là sự lan trải hoàn toàn, là chiều sâu thăm thẳm khôn dò; nhưng thỉnh
thoảng chúng tôi trồi lên bề mặt và đó chính là thứ mà bạn nhìn thấy ở chúng
tôi. Với bà, chân trời của bà dường như vô hạn. Có tất cả những nơi chốn bà
chưa từng nhìn thấy, những thảo nguyên Ấn Độ; bà cảm thấy mình đang nép mình
cạnh bức màn cửa bằng da dày của một ngôi nhà thờ ở Rome. Cái lõi của bóng tối này có thể đi khắp
mọi nơi, vì không ai nhìn thấy nó. Họ không thể ngăn nó lại, bà nghĩ, hả hê. Có
sự tự do, có sự thanh bình, và tuyệt vời nhất, có sự tập trung, một trạng thái
nghỉ ngơi trên một cái nền bền vững. Không phải giống như người ta cảm thấy bản
thân mình ngơi nghỉ, theo kinh nghiệm của bà, (tới đây bà khéo léo hoàn tất một
động tác nào đó trong công việc đan tất) mà giống như một cái nêm của bóng tối.
Khi mất đi cá tính, người ta cũng mất cả cảm giác khó chịu, sự vội vã, sự náo
nức; và từ đôi môi của bà luôn thốt ra một tiếng kêu chiến thắng trước cuộc đời
khi mọi sự vật đến bên nhau trong sự thanh bình này, sự nghỉ ngơi này, sự miên
viễn này; và dừng ý nghĩ ở đó, bà nhìn ra, bắt gặp luồng ánh sáng của ngọn hải
đăng, luồng ánh sáng dài đều đặn, luồng ánh sáng cuối trong ba luồng ánh sáng,
nó là luồng ánh sáng của bà, vì khi quan sát chúng trong tâm trạng này, luôn
luôn vào chính thời khắc này, người ta không thể không gắn kết bản thân mình
với một sự vật đặc biệt trong số những sự vật mà người ta nhìn thấy; và sự vật
này, luồng ánh sáng dài đều đều này, là luồng ánh sáng của bà. Bà thường nhận
ra mình đang ngồi và nhìn, ngồi và nhìn, với công việc trên tay cho tới khi bà
trở thành thứ mà bà nhìn – chẳng hạn như ánh sáng đó. Và nó sẽ nâng lên trên nó
một cụm từ bé nhỏ này hay khác vốn đang nằm trong tâm trí của bà như câu – “Trẻ
con không quên, trẻ con không quên” – mà bà thường lặp lại và bắt đầu bổ sung
thêm cho nó, Nó sẽ kết thúc, nó sẽ kết thúc, bà nói. Nó sẽ tới, nó sẽ tới, đột
nhiên bà nói thêm, Chúng ta ở trong tay của Chúa.
Nhưng ngay sau đó bà thấy bực mình vì đã nói thế. Ai đã nói
câu đó vậy? Không phải là bà; bà đã bị cài bẫy để nói một điều mà bà không định
nói. Bà nhìn lên và bắt gặp luồng ánh sáng thứ ba và đối với bà việc này cũng
tựa như mắt bà chạm phải chính mắt bà, bà tìm kiếm như khi ở một mình bà có thể
tìm kiếm trong đầu óc và trái tim mình, gạn lọc từ bản thể sự dối trá đó, bất
kỳ sự dối trá nào. Bà tự ngợi ca mình trong việc ngợi ca ánh sáng đó, không
chút tự cao tự đại, vì bà nghiêm khắc, bà đang tìm kiếm, bà đẹp đẽ như ánh sáng
đó. Thật kỳ lạ làm sao, bà nghĩ, nếu người ta ở một mình, người ta thường
nghiêng về các sự vật vô tri; những cây cối, những con suối, những bông hoa;
cảm thấy chúng thể hiện người ta; cảm thấy chúng trở thành người ta; cảm thấy
chúng biết người ta, trong một ý nghĩa nào đó chính là người ta; cảm thấy một
nỗi dịu êm phi lý như thế về chính bản thân (bà nhìn luồng ánh sáng dài đều đều
đó). Bà nhìn, nhìn mãi, đôi kim đan ngưng hoạt động, và một làn sương mù, một
chiếc cầu để gặp gỡ người tình nhân yêu dấu chợt nổi lên, cuộn lên phía trên
nền tâm trí, nổi lên từ chiếc hồ bản thể của bà.
Điều gì khiến cho bà nói rằng: “Chúng ta ở trong tay của Chúa?”
bà tự hỏi. Sự giả dối luồn vào giữa những sự thật khuấy động bà, khiến bà phiền
muộn. Bà lại quay về với công việc đan vớ. Đức Chúa nào đó làm thế nào để tạo
ra thế giới này? bà hỏi. Trong tâm trí, bà luôn bám chặt thực tế rằng không hề
có lý trí, trật tự hay công chính: mà là khổ đau, chết chóc và nghèo túng. Cũng
chẳng có sự dối trá nào đê tiện đến mức không thể thực hiện được đối với thế
gian; bà biết điều đó. Hạnh phúc không tồn tại; bà biết điều đó. Bà đan với sự
điềm tĩnh vững vàng, đôi môi hơi mím lại và, không chút ý thức nào về điều đó,
những đường nét trên khuôn mặt của bà cứng lại, bình thản, theo thói quen của
tính tình nghiêm nghị, đến nỗi khi chồng bà đi ngang qua, dù đang cười khúc
khích với ý nghĩ rằng triết gia Hume, ngày càng trở nên béo ị, đã sa vào một
bãi lầy, vẫn không thể không nhận thấy, khi ông đi ngang qua, sự nghiêm khắc
nằm ở trung tâm vẻ đẹp của bà. Nó làm cho ông buồn, và vẻ xa vắng của bà làm
cho ông đau nhói, và ông cảm thấy, khi đi ngang qua, rằng ông không thể bảo vệ bà,
và, khi đi tới hàng giậu, ông thấy buồn rầu. Ông chẳng thể làm gì để giúp bà.
Ông phải đứng sang bên và ngắm nhìn bà. Thật ra, có một sự thật quỷ tha ma bắt
là ông đã làm cho mọi sự trở nên tệ hại hơn đối với bà. Ông tức tối – ông quá
nhạy cảm. Ông đã đánh mất bình tĩnh về việc ngọn hải đăng. Ông nhìn vào hàng
giậu, vào sự phức tạp của nó, bóng tối của nó.
Luôn luôn, bà Ramsay cảm thấy, người ta miễn cưỡng giúp
chính mình thoát khỏi sự lẻ loi bằng cách bám vào một thứ nhỏ nhoi tầm thường
nào đó, một âm thanh nào đó, một cảnh tượng nào đó. Bà lắng nghe, nhưng mọi thứ
đều rất lặng lẽ; trận đấu crikê đã chấm dứt; lũ trẻ đang tắm; chỉ còn âm thanh
của biển. Bà ngưng đan; bà cầm lủng lẳng chiếc vớ dài màu nâu đỏ trong giây
lát. Bà lại nhìn thấy luồng ánh sáng. Với một sự mỉa mai nào đó trong sự chất
vấn chính bản thân, vì khi người ta thức giấc, những mối quan hệ của người ta
thay đổi, bà nhìn vào luồng ánh sáng đều đều, luồng ánh sáng nhẫn tâm, luồng
ánh sáng không thương xót, giống bà rất nhiều, thế nhưng cũng giống bà rất ít,
cái bắt buộc bà phải phục tùng (bà thức giấc trong đêm và thấy nó tuôn đổ xuống
giường họ, quét qua nền nhà), nhưng với tất cả những thứ đó, bà nghĩ, quan sát
nó với sự mê hoặc như bị thôi miên, như thể với những ngón tay lóng lánh ánh bạc
nó đang vuốt ve một mạch máu phong kín nào đó trong óc não bà mà sự bùng nổ của
nó sẽ khiến lòng bà tràn ngập nỗi hân hoan mà bà đã từng biết như là hạnh phúc,
một niềm hạnh phúc tinh tế, một niềm hạnh phúc căng tràn, và nó nhuộm bạc những
lượn sóng hung hãn khiến chúng sáng lạn hơn, khi ánh ngày đã nhạt nhòa, còn màu
xanh trời thì rút xa khỏi biển và cuộn tròn trong những lượn sóng màu chanh
thuần khiết đang cuộn lên, phình ra và đổ ập xuống bờ biển và trạng thái ngất
ngây bùng nổ trong mắt bà, và những lượn sóng của niềm vui thuần khiết tràn
ngập tâm trí bà và bà nghĩ, Thế là đủ! Thế là đủ!
Ông quay lại và nhìn thấy bà. Ôi chao! Bà thật xinh đẹp, bây
giờ bà xinh đẹp hơn bao giờ hết, ông nghĩ. Nhưng ông không thể quấy rầy bà. Ông
mong mỏi một cách khẩn thiết được nói với bà ngay bây giờ, khi James đã đi và
cuối cùng bà còn lại có một mình. Nhưng ông kiên quyết, không; ông sẽ không
quấy rầy bà. Bây giờ bà quá cách biệt với ông trong vẻ đẹp của bà, trong nỗi
buồn của bà. Ông sẽ để cho bà yên, và ông đi ngang qua bà mà không nói lời nào,
dù việc bà có vẻ xa cách như thế và việc ông không thể tới bên bà, không thể
làm gì để giúp bà, khiến ông bị tổn thương. Một lần nữa, hẳn là ông sẽ đi ngang
qua bà mà không nói lời nào nếu như bà không, vào chính ngay giây phút ấy, trao
cho ông với ý chí tự do của mình thứ mà bà biết ông sẽ không bao giờ đòi hỏi,
và gọi ông lại, gỡ chiếc khăn choàng màu xanh lá ra khỏi khung bức tranh và
bước tới bên ông. Vì ông mong muốn, bà biết, được bảo vệ bà.
12
Bà cuộn chiếc khăn choàng quanh bờ vai mình. Bà khoác tay
ông. Vẻ đẹp của anh ta thật tuyệt vời, bà bảo, bắt đầu nói ngay về người làm
vườn Kennedy, rằng anh ta đẹp trai đến nỗi bà không thể sa thải anh ta. Có một
cái thang gác dựa vào căn nhà kính và những đống vữa nhỏ rải rác quanh đó, vì
họ đang bắt đầu sửa chữa căn nhà kính. Phải, nhưng trong khi lững thững bước
cạnh chồng mình, bà cảm thấy nỗi lo âu cụ thể đó đã được đặt ra. Câu nói đã nằm
trên đầu lưỡi của bà, trong khi họ đang đi, “Nó sẽ tốn năm mươi bảng”, nhưng
thay vào đó, vì tim bà không nghĩ tới tiền bạc, bà lại nói về việc Jasper bắn
chim, và ngay lập tức ông nói, để an ủi bà, rằng đó là chuyện tự nhiên ở một
đứa bé trai, và ông tin rằng chẳng lâu la gì nó sẽ tìm ra những cách tiêu khiển
tốt hơn. Chồng bà quá hiểu biết, quá công bằng. Thế là bà nói, “Phải, tất cả
những đứa trẻ đều trải qua những giai đoạn,” và bắt đầu săm soi những đóa hoa
thược dược trong luống hoa lớn, tự hỏi những bông hoa năm sau sẽ ra sao, và ông
có nghe cái biệt danh mà bọn trẻ đặt cho Charles Tansley hay không, bà hỏi. Gã
vô thần, chúng gọi anh ta như thế, gã vô thần bé nhỏ. “Anh ta không phải là mẫu
người thanh nhã,” ông Ramsay nói. “Còn lâu mới được thế,” bà Ramsay nói.
Bà cho rằng tốt nhất cứ để cho anh ta tự xoay xở lấy, bà
Ramsay nói, tự hỏi việc gửi những củ hành xuống có tác dụng gì không; họ có
trồng chúng không? “Ồ, anh ta phải viết những luận án của mình,” ông Ramsay
nói. Bà biết tất cả về điều đó, ông Ramsay nói. Anh ta không nói về điều gì
khác. Tất cả đều chỉ nói về ảnh hưởng của ai đó lên một điều gì đó. “Chà, đó là
tất cả những gì anh ta phải dựa vào, bà Ramsay nói. “Cầu Trời anh ta sẽ không
phải lòng con bé Prue,” bà Ramsay nói. Ông sẽ tước quyền thừa kế của nó nếu nó
cưới anh ta, ông Ramsay nói. Ông không nhìn những bông hoa bà vợ đang săm soi
mà lại nhìn vào một điểm nào đó bên trên chúng chừng hai tấc. Anh ta chẳng có
gì nguy hiểm, ông nói thêm, và sắp sửa nói rằng dù sao thì anh ta là chàng trai
trẻ duy nhất ở nước Anh ngưỡng mộ ông, nhưng ông nuốt câu này xuống cổ. Ông sẽ
không làm bận lòng bà thêm nữa về những cuốn sách của mình. Những bông hoa này
có vẻ tuyệt đấy, ông Ramsay nói, hạ thấp ánh mắt và nhận thấy một thứ gì đó đo
đỏ, một thứ gì đó nâu nâu. Vâng, nhưng bà đã đặt những bông hoa này vào tay
mình, bà Ramsay nói. Vấn đề là, điều gì sẽ xảy ra nếu bà gửi những củ hành
xuống; Kenedy có trồng chúng không? Cái bệnh lười của anh ta thật khó mà chữa
khỏi; bà nói thêm, đi tiếp. Nếu bà đứng giám sát anh ta suốt ngày với một cái
mai trong tay bà thì đôi khi anh ta cũng cố gắng làm lụng đôi chút. Họ lững
thững đi tiếp tới chỗ những khóm hoa loa kèn đuốc. “Bà đang dạy cho mấy đứa con
gái phóng đại mọi chuyện lên,” ông Ramsay nói, quở trách bà. Cô Camilla của bà
còn tệ hơn cả bà nữa, bà Ramsay nhận xét. “Tôi chưa hề thấy người nào xem cô
Camilla của bà là một kiểu mẫu về đức hạnh,” ông Ramsay nói. “Cô ấy là người
phụ nữ đẹp nhất mà tôi từng thấy,” bà Ramsay nói. “Có người khác hơn đấy,” ông
Ramsay nói. Prue sẽ đẹp hơn cô ấy nhiều, bà Ramsay nói. Ông chẳng thấy dấu hiệu
nào về điều đó cả, ông Ramsay nói. “Ồ, vậy tối nay ông cứ nhìn xem,” bà Ramsay
nói. Họ dừng lại. Ông ước rằng Andrew sẽ làm việc chăm chỉ hơn. Nếu không, nó
sẽ đánh mất mọi cơ hội để nhận được một học bổng. “Ồ, những học bổng!” bà nói.
Ông Ramsay nghĩ bà thật ngốc khi nói như thế về một việc nghiêm túc như một học
bổng. Ông sẽ rất tự hào về Andrew nếu nó nhận được một học bổng, ông nói. Bà
cũng sẽ tự hào không kém nếu nó không nhận được học bổng nào cả, bà trả lời. Họ
luôn bất đồng về việc này, nhưng điều đó không quan trọng. Bà thích ông tin vào
những khoản học bổng, còn ông thích bà tự hào về James bất kể nó làm gì. Đột
nhiên bà sực nhớ về những con đường mòn trên rìa các vách đá.
“Trời đã muộn, có phải không?” bà hỏi. Chúng vẫn chưa về
nhà. Ông cẩu thả bật cái nắp đồng hồ. Nhưng chỉ mới quá bảy giờ. Ông để mở nắp
đồng hồ một lúc, quyết định rằng ông sẽ nói với bà những gì ông đã cảm thấy ở
trước hiên nhà. Để bắt đầu việc đó, thật rất vô lý khi quá lo âu căng thẳng.
Andrew có thể tự chăm sóc bản thân. Thế rồi ông muốn nói với bà rằng khi ông
đang đi lại trước hiên nhà – tới đây ông trở nên lúng túng, như thể ông đang
xâm nhập vào sự cô độc, sự cách biệt, sự xa vắng của bà. Nhưng bà thúc giục
ông. Ông muốn kể cho bà nghe chuyện gì, bà hỏi, nghĩ rằng đó là về việc đi ra
ngọn hải đăng; rằng ông hối tiếc vì đã nói “Quỷ tha ma bắt bà đi”. Nhưng không.
Ông không thích trông thấy bà có vẻ buồn bã như thế, ông nói. Chỉ là vì đang
tập trung để gom len lại, bà phản kháng, hơi đỏ mặt đôi chút. Cả hai cảm thấy
lúng lúng, như thể họ không biết nên đi tiếp hay quay trở lại. Bà đã đọc truyện
cổ tích cho James nghe, bà bảo. Không, họ không thể chia sẻ điều đó; họ không
thể nói điều đó.
Họ đã tới khoảng trống giữa hai khóm loa kèn đuốc, và ngọn
hải đăng lại hiện ra, nhưng bà không cho phép mình nhìn nó. Giá bà biết ông đã
nhìn bà, bà nghĩ, bà sẽ không cho phép mình ngồi đó suy nghĩ. Bà không thích
bất cứ điều gì nhắc cho bà nhớ rằng bà đã ngồi suy nghĩ. Vì thế bà ngoảnh lại
nhìn về hướng thị trấn. Những ánh đèn đang chuyển động lăn tăn như thể chúng là
những giọt nước bạc được neo giữ lại trong một cơn gió. Và tất cả những nghèo
nàn, tất cả những khổ đau đã quay sang đó, bà Ramsay nghĩ. Những ánh đèn của
thị trấn, của hải cảng và của những con thuyền giống như giống tấm lưới ma quái
trôi lờ đờ ở đó để đánh dấu một thứ gì đó đã đắm chìm. Chà, nếu ông không thể
chia sẻ những suy nghĩ của bà ấy, ông Ramsay tự nhủ, ông sẽ bỏ đi và suy nghĩ
về những chuyện của riêng mình. Ông muốn tiếp tục suy nghĩ, tự kể cho mình nghe
câu chuyện Hume đã sa vào một bãi lầy ra sao; ông muốn cười rộ lên. Nhưng trước
hết lo lắng về Andrew là một điều vô lý. Khi ở lứa tuổi của Andrew, ông thường
đi bộ khắp vùng suốt ngày, chẳng có gì ngoài một cái bánh quy trong túi và
chẳng có ai bận tâm về ông hay nghĩ rằng
ông đã ngã trên một vách núi. Ông nói to ý nghĩ của mình rằng ông sẽ ra ngoài
tản bộ một ngày nếu thời tiết tốt. Ông thấy đã quá đủ với Bankes và Carmichael.
Ông muốn được lẻ loi chút ít. Vâng, bà nói. Việc bà không phản đối làm ông bực
bội. Bà biết rằng ông sẽ không bao giờ thực hiện điều đó. Bây giờ ông đã quá
già, không thể đi bộ suốt ngày với một cái bánh quy trong túi. Bà lo cho lũ trẻ
chứ không lo cho ông. Cách đây nhiều năm, trước khi lấy vợ, ông nghĩ, nhìn qua
cái vịnh, khi họ đang đứng đó giữa hai khóm loa kèn đuốc, ông đã từng đi bộ cả
ngày. Ông đã ăn một bữa chỉ có bánh mì và bơ trong một quán ăn. Ông đã làm việc
một mạch mười tiếng đồng hồ; một bà cụ cứ thỉnh thoảng lại thò đầu vào và nhìn
ánh lửa. Đó là vùng quê ông thích nhất, ở phía kia; những dãy đồi đang chìm vào
bóng tối đó. Người ta có thể đi suốt ngày mà không gặp bóng người nào. Hầu như
chẳng có một ngôi nhà, một làng xóm lẻ loi nào trong suốt nhiều dặm. Người ta
có thể lo âu về mọi thứ một mình. Có những bờ cát nhỏ chưa có ai đặt chân tới
từ thuở khai thiên lập địa. Những con hải cẩu ngóc lên và nhìn bạn. Đôi khi
dường như ông cảm thấy cô đơn trong ngôi nhà nhỏ ngoài kia – ông thoát khỏi suy
nghĩ, thở dài. Ông không có quyền. Người cha của tám đứa con – ông tự nhắc nhở
mình. Và ông sẽ là một con quái vật hay một tên vô lại nếu ước ao có một thay
đổi duy nhất nào. Andrew sẽ là một người đàn ông tốt hơn ông. Prue sẽ là một cô
gái xinh đẹp, mẹ nó bảo. Họ sẽ ngăn dòng nước lụt được chút nào hay chút nấy.
Nhìn chung có khá nhiều việc phải làm – tám đứa con của ông. Chúng cho thấy ông
đã không phiền trách cái vũ trụ bé nhỏ tội nghiệp này về một buổi tối như thế
này, ông nghĩ, nhìn vào dải đất đang hao mòn dần, hòn đảo nhỏ dường như bé nhỏ
một cách thảm hại, đã bị biển cả nuốt đi phân nửa.
“Cái chốn bé nhỏ tội nghiệp,” ông lẩm bẩm với một tiếng thở
dài.
Bà nghe thấy ông. Ông đã nói những điều buồn thảm nhất,
nhưng bà nhận thấy dường như khi đã trực tiếp nói ra ông sẽ vui vẻ hơn thường
lệ. Tất cả những trò đặt thành ngữ này là một trò chơi, bà nghĩ, vì giá như bà
chỉ cần nói phân nửa những gì ông nói, hẳn bà phải vỡ óc ra ngay.
Nó làm bà bực mình, cái trò đặt thành ngữ này, và bà nói với
ông, một cách giản dị, rằng đây là một buổi tối hoàn toàn đáng yêu. Và ông đang
than thở điều gì, bà hỏi, nửa cười cợt nửa phàn nàn, vì bà đoán được ông đang
nghĩ gì – lẽ ra ông đã viết được những cuốn sách hay hơn nếu không lấy vợ.
Ông không than phiền, ông bảo. Bà biết rằng ông không than
phiền. Bà biết rằng ông chẳng có gì để than phiền cả. Và ông nắm chặt tay bà,
nâng nó lên môi và hôn nó đắm đuối khiến mắt bà rưng rưng lệ, rồi ông nhanh
chóng buông nó ra.
Họ quay trở lại và bắt đầu đi lên con đường mòn nơi những
cây lá đâm chồi như những mũi giáo xanh xanh óng bạc, tay trong tay. Cánh tay
ông gần giống như cánh tay của một chàng trai trẻ, bà Ramsay nghĩ, mảnh khảnh
và rắn chắc, và bà nghĩ với niềm vui sướng rằng ông vẫn còn mạnh khỏe biết bao,
dù đã quá sáu mươi, và kiên cường lạc quan biết bao, thật lạ lùng khi có thể
chắc chắn rằng, như bản thân ông là thế, mọi điều kinh khủng dường như không
làm ông thoái chí mà lại làm ông vui mừng phấn chấn. Có kỳ lạ hay không, bà
ngẫm nghĩ? Thật sự, đối với bà, đôi khi dường như ông được tạo thành một cách
khác biệt so với mọi người khác, sinh ra mù, điếc, đui, đối với những điều bình
thường, nhưng lại có một đôi mắt như mắt chim đại bàng đối với những sự vật
khác thường. Sự hiểu biết của ông thường làm cho bà kinh ngạc. Nhưng ông có chú
ý tới những bông hoa không? Không. Ông có chú ý tới cảnh vật không? Không. Thậm
chí ông có chú ý tới vẻ đẹp của con gái mình, hoặc có món bánh pu-đinh hay bò
nướng trong dĩa của mình hay không? Ông chỉ ngồi ở bàn với họ như một người
trong giấc mộng. Và bà e là ông ngày càng thâm nhiễm thói quen nói lớn tiếng
hay đọc lớn những bài thơ; vì đôi khi thật khó xử –
Tốt đẹp nhất và sáng nhất lìa xa![7]
cô Giddings tội nghiệp đã giật nảy cả người khi ông hét to
câu đó với cô ta. Nhưng vậy thì, bà Ramsay nghĩ, dù ngay lập tức đứng về phía
ông để chống lại mọi cô Giddings ngốc nghếch trên thế giới, vậy thì, bà nghĩ,
thân mật ấn nhẹ lên cánh tay ông để báo hiệu rằng ông đi lên đồi quá nhanh đối
với bà, và bà phải dừng lại một chút để xem có có đống đất chuột đùn mới nào
trên gò đất hay không, vậy thì, bà nghĩ, khom người xuống để nhìn, một bộ óc vĩ
đại như bộ óc của ông phải khác biệt về mọi thứ với bộ óc của chúng ta. Tất cả
những người đàn ông vĩ đại mà bà từng biết đều như thế cả, bà nghĩ, xác định
rằng hẳn phải có một con thỏ đã đột nhập vào khu vườn, và chỉ cần nghe ông nói,
chỉ đơn giản nhìn ông cũng là một điều tốt cho những chàng trai trẻ (dù bầu
không khí của những giảng đường khá ngột ngạt và hầu như không thể nào chịu
đựng nổi đối với bà). Nhưng nếu không bắn lũ thỏ thì người ta làm thế nào để
giảm bớt số lượng của chúng? bà tự hỏi. Đó có thể là một con thỏ; đó có thể là
một con chuột chũi. Dù sao thì cũng có một sinh vật nào đó đang tàn phá những
khóm hoa Dạ Anh Thảo của bà. Và ngẩng nhìn lên, bà trông thấy bên trên những
thân cây gầy guộc những tia sáng đầu tiên của một vì sao đang phập phồng tỏa
sáng, và muốn chồng bà cũng nhìn lên nó; vì cảnh tượng đó mang tới cho bà một
niềm vui rộn rã. Nhưng bà tự ngăn mình lại. Ông ấy không bao giờ nhìn những sự
vật. Nếu ông ấy nhìn, tất cả những gì ông ấy nói sẽ là, Cái thế giới bé nhỏ tội
nghiệp, với một tiếng thở dài.
Ngay lúc ấy, ông ấy nói, “Rất đẹp,” để làm bà vui lòng, và
giả vờ ngưỡng mộ những đóa hoa. Nhưng bà biết rất rõ ông không hề ngưỡng mộ
chúng, thậm chí còn không nhận ra rằng chúng hiện diện ở đó. Chỉ là để làm vui
lòng bà. Chà, nhưng kia có phải là Lily Briscoe đang thả bước cạnh William
Bankes không nhỉ? Bà nheo đôi mắt cận thị của mình nhìn vào lưng của hai người
đằng trước. Phải, đúng là như thế. Điều đó không có nghĩa là họ sẽ lấy nhau đấy
chứ? Vâng, phải là như thế! Thật là một ý tưởng tuyệt vời! Họ phải lấy
nhau!
[1]
Thể thơ mà những chữ cái đầu của bài thơ nếu được ghép lại sẽ tạo thành một từ,
thông thường là một danh từ riêng chỉ người, địa điểm..
[2] John Locke (1632 – 1704) triết gia Anh.
[3] David Hume
(1711 - 1776) triết gia, sử gia, kinh tế gia Tô Cách Lan.
[5] Thomas Carlyle (1795 – 1881) giáo sư, sử
gia, nhà văn châm biếm Tô Cách Lan.
[6] Ở
đây người dịch bỏ qua một cụm từ: “If they had charades,” vì không thể
dịch cho phù hợp với ngữ nghĩa của đoạn kế tiếp. Rất mong được các bậc cao minh
chỉ giáo để hoàn chỉnh thêm.
[7]
Dòng đầu bài thơ "To Jane: The Invitation"
của nhà thơ Anh Percy Bysshe Shelley (1792-1822)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét