Thứ Bảy, 25 tháng 8, 2012

Tới ngọn hải đăng - Chương VI - XII






6
         
Nhưng điều gì đã xảy ra?
Ai đó đã sai lầm.
Từ trạng thái mơ màng, bà bắt đầu nghĩ về ý nghĩa của những từ mà bà đã neo giữ một cách vô ý nghĩa trong tâm trí mình suốt một lúc lâu. “Ai đó đã sai lầm” – dán đôi mắt cận thị vào ông chồng, người lúc này đang bước về phía bà, bà nhìn đăm đăm cho tới khi sự có mặt của ông (câu thơ tự đan kết với nhau trong đầu bà) hé lộ rằng đã có điều gì đó xảy ra, đã có ai đó sai lầm. Nhưng suốt đời mình, bà không thể nghĩ ra đó là gì.
Ông ấy rùng mình; ông ấy run rẩy. Mọi ảo tưởng phù du của ông ấy, mọi niềm mãn nguyện của ông ấy về sự chói lọi của chính mình, phi ngựa như một tia chớp, hung tợn như một con chim ưng ở phía trước những người lính của mình khi băng qua cái thung lũng tử thần, tất cả đã đổ vỡ tan tành như mây khói. Xông pha trong đạn pháo, chúng ta can trường cưỡi ngựa xông lên, lao như chớp qua thung lũng tử thần – thẳng vào Lily Briscoe và William Bankes. Ông ấy rùng mình. Ông ấy run rẩy.
Nhận ra, từ những dấu hiệu quen thuộc, rằng đôi mắt ông ấy hướng sang nơi khác, với một sự thu mình kỳ lạ nào đó, như thể ông ấy đang tự bao kín lấy bản thân và cần sự riêng tư để lấy lại thăng bằng, rằng ông ấy đang nổi giận và đau khổ, chẳng có lý do gì trên đời để bà phải nói gì với ông ấy cả. Bà vuốt nhẹ đầu James; bà truyền sang cho nó điều mà bà cảm nhận về chồng mình, và, trong lúc ngắm nhìn nó tô phấn vàng lên chiếc áo trắng của một quý ông trong cuốn danh mục hàng hóa của cửa hàng Quân đội và Hải quân, bà nghĩ hẳn bà sẽ vui sướng biết bao nếu nó trở thành một nghệ sĩ lớn; và tại sao nó lại không trở thành như thế chứ?
Nó có một vầng trán tuyệt vời. Thế rồi, ngẩng nhìn lên, khi ông chồng đi ngang bà một lần nữa, bà nhẹ nhõm khi nhận thấy sự sụp đổ đã được che giấu kín; đời sống gia đình đã hát khúc khải hoàn ca; tập quán lại ngân nga giai điệu vỗ về của nó, khiến khi dừng lại một cách chủ động trong chuyến vòng trở lại chỗ cửa sổ, ông cúi người xuống một cách giễu cợt và bất thường để cù vào bắp chân để trần của James với một nhánh cây gì đó, bà trách ông về việc đã bỏ rơi Charles Tansley, “cái gã trẻ tuổi tội nghiệp đó”. Anh ta phải vào phòng để viết bản luận án của mình, ông ấy nói.
“James sẽ phải viết bản luận án của nó về một trong những ngày này,” ông ấy nói thêm một cách mỉa mai, khua nhẹ cái nhánh cây.
Ghét cha mình, James gạt ra xa cái nhánh cây mà cha nó đang cù vào bắp chân trần của nó theo một cung cách riêng biệt của ông, kết hợp giữa sự nghiêm khắc và tính khôi hài.
Bà đang cố hoàn thành những chiếc vớ đáng ngán ngẩm này để ngày mai gửi cho đứa con trai bé nhỏ của Sorley, bà Ramsay nói.
Chẳng có một cơ may khả dĩ nhỏ nhất nào để họ có thể đi ra ngọn hải đăng vào ngày mai, ông Ramsay cáu kỉnh ngắt ngang.
Làm sao ông biết? bà hỏi. Gió thường hay thay đổi.
Sự vô lý tột cùng trong nhận xét của bà, sự điên rồ của đầu óc đàn bà khiến cho ông điên tiết. Ông đã cưỡi ngựa băng qua thung lũng tử thần, đã tả tơi và run rẩy; thế mà bây giờ bà bất chấp cả những thực tế, khiến cho lũ con của ông hy vọng về một chuyện hoàn toàn vô căn cứ, thực ra là nói những lời dối trá. Ông dậm mạnh bàn chân lên bậc thềm đá. “Quỷ tha ma bắt bà đi,” ông nói. Nhưng bà đã nói gì? Chỉ đơn giản là ngày mai có thể trời đẹp. Có thể là như thế.
Bất chấp phong vũ kế đang hạ thấp và gió thổi về đúng hướng tây.
Đối với bà, việc theo đuổi chân lý mà không hề quan tâm tới cảm giác của mọi người một cách đáng kinh ngạc như thế, việc xé tan tành những tấm màn che mỏng manh của văn minh một cách cố tình, tàn bạo như thế, là một sự xúc phạm quá kinh khủng tới phép lịch sự của con người đến mức bà cúi đầu xuống như thể để cho trận mưa đá phũ phàng, dòng nước bẩn thỉu trào tuôn đó ập xuống người mình mà không hề trách móc. Không có gì để nói cả.
Ông ấy đứng im lặng cạnh bà. Cuối cùng, rất nhún nhường, ông ấy bảo rằng ông ấy sẽ đi ra đó và hỏi những người lính tuần duyên nếu bà muốn.
Bà không sùng kính một ai như đã sùng kính ông.
Bà rất sẵn lòng nhận lời ông ấy về điều đó, bà nói. Chỉ vậy họ mới không phải xa cách nhau thêm – có thế thôi. Họ tới với bà, một cách tự nhiên, vì bà là một người đàn bà, suốt cả ngày dài bận rộn với việc này việc nọ; người muốn điều này, kẻ muốn điều kia; lũ trẻ thì đang tuổi lớn; bà thường cảm thấy bà chẳng là gì cả ngoài một mẩu bọt biển thấm đẫm những cảm xúc của con người. Thế rồi ông ấy nói, “Quỷ tha ma bắt bà đi. Ông ấy nói, Trời phải mưa. Giá như ông ấy nói, Trời sẽ không mưa; ngay lập tức một vũ trụ an toàn sẽ mở ra trước mắt bà. Bà không sùng kính người nào hơn thế. Bà cảm thấy bà không đủ sức để trói buộc ông ấy.  
Xấu hổ về sự nóng nảy đó, về điệu bộ vung chân múa tay khi xung phong ở phía trước đạo quân của mình đó, ông Ramsay ngượng ngập cù vào cái chân trần của đứa con trai một lần nữa, và rồi, như thể ông buộc bà phải rủ bỏ nó đi, với một khoảnh khắc mà lạ lùng thay đã nhắc nhở vợ ông về con sư tử biển to lớn ở Vườn thú đang nhào lộn ra sau khi đã nuốt con cá của ông rồi phóng vụt đi khiến nước trong cái bồn chứa sóng sánh từ phía này sang phía khác, ông lặn sâu vào bầu không khí chiều tà đã trở nên mong manh hơn và lúc này đang xoá nhòa đi những chiếc lá và hàng giậu, nhưng, như thể để bù đắp lại, mang tới cho những bông hồng và bông cẩm chướng một vẻ lộng lẫy mà chúng không có lúc ban ngày.
“Ai đó đã sai lầm,” ông lại vừa ngâm nga vừa sải dài chân qua lại trước hiên nhà.
Nhưng âm điệu của ông đã thay đổi đến lạ lùng! Nó giống như tiếng gà gáy; “vào tháng Sáu anh chàng bị mất giọng”; như thể ông đang thử nghiệm, đang tìm kiếm một cách ngập ngừng, một cụm từ cho tâm trạng mới, và vì chỉ có cụm từ này trong tay, đành phải sử dụng nó, dù nó ồ ề. Nhưng nghe nó thật buồn cười – “Ai đó đã sai lầm” – được nói theo kiểu gần như là một câu hỏi, không có chút sức thuyết phục nào, về mặt âm điệu. Bà Ramsay không thể không mỉm cười, và ngay sau đó, chắc chắn là vậy, trong khi vẫn đi qua đi lại, ông ấy bắt đầu ậm ừ, hạ giọng, rồi im bặt. 
Ông đã an toàn. Ông đã có lại sự riêng tư của mình. Ông dừng lại để đốt tẩu thuốc, nhìn một cái vào vợ và con trai mình ở phía trong cửa sổ, và như một người trong một con tàu tốc hành vừa rời mắt khỏi một trang sách, ngước lên và nhìn thấy một trang trại, một thân cây, một khóm nhà trông như một bức tranh minh họa, một sự xác nhận về một điều gì đó trên trang giấy in mà anh ta quay nhìn trở lại, được củng cố tinh thần, và mãn nguyện, dù không thể nhìn rõ cả vợ lẫn con trai mình, hình ảnh của họ cũng củng cố tinh thần ông, làm cho ông mãn nguyện và thúc đẩy ông nỗ lực đạt tới một sự thấu hiểu hoàn toàn rõ ràng về vấn đề lúc này đang thu hút những năng lượng trong bộ óc tuyệt vời của ông.
Nó là một bộ óc tuyệt vời. Vì nếu tư tưởng giống như bàn phím của một chiếc dương cầm, được chia làm rất nhiều nốt, hay giống như hai mươi sáu mẫu tự ABC xếp theo trật tự, khi đó bộ óc tuyệt vời của ông chẳng hề khó khăn chút nào trong việc điểm qua lần lượt từng mẫu tự đó, một cách chắc chắn và chính xác, cho tới khi nó tới, chẳng hạn, mẫu tự Q. Ông đã tới mẫu tự Q. Trong toàn bộ nước Anh có rất ít người tới được chữ Q. Ở đây, dừng lại một lúc cạnh cái chậu đá trồng phong lữ thảo, ông nhìn thấy, nhưng bây giờ rất xa xôi, vợ và con trai ông, cả hai, phía trong cửa sổ, như bọn trẻ con đang nhặt vỏ sò, cực kỳ vô tư và hoàn toàn bị xâm chiếm bởi những thứ bé nhỏ dưới chân chúng và theo cách nào đó hoàn toàn vô tự vệ không thể chống lại một định mệnh bất hạnh mà ông nhận thức được. Họ cần sự bảo vệ của ông; ông đã trao nó cho họ. Nhưng sau chữ Q? Điều gì sẽ tới? Sau chữ Q là một số mẫu tự mà cuối cùng trong số chúng là một mẫu tự hiếm khi những đôi mắt phàm nhân nhìn thấy, nhưng đang đỏ lấp lánh ở phía xa xa. Chỉ duy nhất một người trong mỗi thế hệ đạt tới chữ Z một lần. Tuy nhiên, nếu ông có thể tới chữ R thì đó cũng là một điều đáng kể. Ít nhất ở đây là chữ Q. Ông đào sâu gót chân xuống chữ Q. Ông chắc chắn về chữ Q. Ông có thể chứng minh chữ Q. Nếu đã Q thì rồi sẽ có Q–R. Tới đây ông gõ cái ống tẩu, với hai ba tiếng vang vang, trên cái tay xách của chiếc chậu, và tiếp tục. “Vậy thì R…” Ông gắng hết sức. Ông tự xiết lấy chính mình.
Những phẩm chất có thể cứu hành khách của một con tàu hiện ra trên biển cả sôi sục dưới hình thức sáu cái bánh quy và một chai nước – sự chịu đựng và công lý, sự lo xa, sự tận tụy, kỹ năng, đã giúp sức cho ông. Vậy R là – R là gì?
Một tấm màn, như lớp da mí mắt của một con thằn lằn, nhấp nháy bên trên cái nhìn căng thẳng của ông và che khuất chữ R. Trong tia chớp của bóng tối đó ông nghe mọi người đang nói – ông là một kẻ thất bại – rằng chữ R vượt khỏi tầm của ông.
Ông sẽ không bao giờ chạm tới chữ R. Hướng tới chữ R, một lần nữa. R –
Những phẩm chất – mà trong một cuộc thám hiểm lẻ loi băng qua những vùng băng giá quạnh hiu ở vùng địa cực sẽ biến ông trở thành vị chỉ huy, kẻ dẫn đường, viên cố vấn, một người có tính khí không lạc quan nhưng cũng không thoái chí, người sẽ bình tĩnh nghiên cứu xem điều gì sẽ đến và đối mặt với nó – lại một lần nữa trợ giúp cho ông. R–
Mí mắt của con thằn lằn lại nhấp nháy một lần nữa. Những tấm màn che trên trán ông phình to ra. Cây phong lữ thảo trong cái chậu trở nên hiển hiện đến lạ lùng, và, hiện ra giữa những chiếc lá của nó, ông có thể nhìn thấy, không hề mong muốn nó, sự khác biệt xưa cũ, hiển nhiên giữa hai loại người; một bên là những kẻ qua lại đều đều với sức mạnh siêu phàm, nặng nhọc và kiên trì, họ lặp lại toàn bộ các mẫu tự ABC theo trật tự, tất cả hai mươi sáu chữ cái, từ đầu tới cuối; một bên khác là những kẻ tài năng, những kẻ tràn đầy cảm hứng mà như trong một phép mầu, họ thu tóm tất cả mọi chữ cái trong một tia chớp lóe – cung cách của thiên tài. Ông không có thiên tài; ông chẳng phàn nàn gì về điều đó: nhưng ông có, hoặc có thể có, khả năng lặp lại mọi từ trong bảng chữ cái theo đúng trật tự từ A tới Z một cách chính xác. Đồng thời trong lúc đó ông bị mắc kẹt ở chữ Q. Vậy thì, hướng tới R. 
Lúc này, khi tuyết bắt đầu rơi và sương giá bao trùm đỉnh núi, những cảm giác ô nhục mà hẳn sẽ không đến với một người lãnh đạo, kẻ biết rằng ông ta phải nằm xuống và chết trước khi bình minh lên, đang luồn vào tâm hồn ông, làm mờ đi màu mắt ông, mang tới cho ông, thậm chí chỉ trong vòng hai phút sau khi ông quay ra trước sân hiên, vẻ nhợt nhạt của tuổi già héo hắt. Thế nhưng ông sẽ không nằm xuống chết; ông sẽ tìm ra một vách đá cheo leo, và ở đó, đôi mắt ông sẽ gắn chặt vào cơn bão tố, cố gắng chọc thủng màn đêm cho tới phút cuối cùng, ông sẽ chết đứng. Ông sẽ không bao giờ với tới chữ R.
Ông đứng bất động cạnh chậu hoa phong lữ thảo tỏa nhánh um tùm. Rốt cuộc, có bao nhiêu người trong một tỷ người, ông tự hỏi, đã chạm tới chữ R? Chắc chắn là một người lãnh đạo với niềm hy vọng chơ vơ có thể tự hỏi mình điều đó, và trả lời mà không phản bội lại đoàn thám hiểm phía sau ông ta, “Có lẽ là một người.” Một người trong cả một thế hệ. Ông có đáng trách không nếu ông không phải là người đó? Miễn là ông đã lao khổ một cách chân thành, cố gắng với hết khả năng, cho tới khi ông không còn gì để cho đi nữa? Và tên tuổi của ông sẽ tồn tại bao lâu? Ngay cả một vị anh hùng đang hấp hối cũng được phép suy nghĩ trước khi ông ta chết rằng người ta sẽ nói về mình như thế nào sau đó. Có lẽ tên tuổi của ông sẽ tồn tại được hai ngàn năm. Và hai ngàn năm là cái quái gì? (ông Ramsay tự hỏi với vẻ mỉa mai, nhìn đăm đăm vào hàng giậu). Là cái quái gì, thật thế, khi bạn nhìn từ một đỉnh núi xuống bãi sa mạc thời gian dài vô tận? Ngay cả một hòn cuội mà người ta giơ chân đá văng xuống cũng sẽ tồn tại lâu hơn Shakespeare.
Ánh sáng bé nhỏ của ông sẽ tỏa ra, không rực rỡ lắm, trong một hoặc hai năm, rồi sẽ chìm vào một ánh sáng lớn hơn, và ánh sáng đó lại chìm vào một ánh sáng khác lớn hơn nữa.
(Ông nhìn vào hàng giậu, vào sự phức tạp của những nhánh cây con.) Vậy thì ai có thể trách người chỉ huy của đoàn người tuyệt vọng mà nói cho cùng đã trèo lên khá cao để có thể nhìn xuống bãi sa mạc của những tháng năm và sự tàn lụi của những vì sao, nếu trước khi cái chết làm tứ chi ông ta đông cứng lại ngoài khả năng cử động, ông thực hiện một cử động đầy ý thức, đưa những ngón tay tê cóng lên mày rồi vươn thẳng vai, để khi đoàn tìm kiếm tới nơi, họ sẽ thấy rằng ông ta đã chết ở vị trí của mình, hình ảnh đẹp đẽ của một người chiến sĩ? Ông Ramsay vươn vai và đứng rất thẳng cạnh cái chậu hoa.
Ai sẽ trách ông nếu ông cứ đứng như thế trong giây lát, tập trung suy ngẫm về danh vọng, về những đoàn tìm kiếm, về những tháp đá tưởng niệm dựng lên bởi những đồ đệ biết ơn trên nắm xương khô của ông? Cuối cùng, ai sẽ trách người chỉ huy của đoàn thám hiểm bất hạnh đó, khi ông đã mạo hiểm cho tới phút tận cùng, đã sử dụng toàn bộ sức lực cho cân nặng cuối cùng và rơi vào giấc ngủ mà không mấy quan tâm tới việc mình có còn tỉnh giấc nữa hay không, và bây giờ ông nhận thức bằng những cảm giác tê nhói ở mấy ngón chân rằng ông còn sống, không chỉ vì mục đích sống, mà còn đòi hỏi sự cảm thông, và rượu whisky, và ai đó để kể lại ngay tức khắc câu chuyện về nỗi thống khổ của mình? Ai sẽ trách ông? Ai sẽ không  kín đáo hân hoan khi vị anh hùng đã cởi tấm áo giáp khỏi người, dừng lại bên cửa sổ và nhìn chăm chú vào vợ và con trai của mình, những người lúc đầu rất xa xôi, dần dần trở nên gần hơn, cho tới khi những đôi môi, cuốn sách và mái đầu hiện lên rõ ràng trước mắt ông, dù vẫn đáng yêu và xa lạ với sự cô đơn trầm trọng của ông, với bãi sa mạc thời gian và sự tàn lụi của những vì sao, và cuối cùng sẽ nhét cái tẩu thuốc vào túi và cúi mái đầu cao quý của mình trước bà ấy – ai sẽ trách ông nếu ông tỏ lòng kính trọng vẻ đẹp của trần gian?


7

Nhưng con trai ông ghét ông. Nó ghét ông vì ông tới bên họ, dừng lại và nhìn xuống họ; nó ghét ông vì ông đã xen vào giữa họ; nó ghét ông vì những điệu bộ ra vẻ trịch thượng và cao cả của ông; vì sự cao quý của đầu óc ông; vì sự đòi hỏi quá quắt và tính ích kỷ của ông (ông đứng đó, đòi hỏi họ phải chú ý tới ông) nhưng hơn hết mọi thứ nó ghét những thể hiện cảm xúc ồn ào nhặng xị của cha nó, đang làm rung động cả bầu không khí xung quanh họ, quấy nhiễu sự hồn nhiên trọn vẹn và cảm nhận tốt đẹp về mối quan hệ giữa nó và mẹ nó. Bằng cách dán mắt vào trang giấy, nó hy vọng sẽ làm cho ông đi tiếp; bằng cách chỉ ngón tay vào một từ, nó hy vọng lôi kéo lại sự chú ý của mẹ nó, điều mà, nó biết một cách giận dữ, sẽ ngay lập tức khiến cha nó bỏ đi. Nhưng, không. Không có gì làm cho ông Ramsay bỏ đi được. Ông đứng đó, đòi hỏi sự cảm thông.
Bà Ramsay, đang ngồi thanh thản, ôm đứa con trai trong tay, hơi xoay người lại và dường như nhấc mình lên với một nỗ lực, và ngay lập tức trút thẳng vào bầu không khí một trận mưa năng lượng, một cột bụi nước, đồng thời trông có vẻ linh hoạt và sống động như thể toàn bộ những năng lượng của bà đang hợp nhất thành sức mạnh, cháy bùng và tỏa sáng (dù bà chỉ ngồi lặng lẽ, cầm lại chiếc tất), và sự cằn cỗi tiền định của người đàn ông sục bản thân nó vào người đàn bà mắn đẻ ngọt ngào này, suối nguồn dào dạt này, như một chiếc vòi ấm đồng khô khan và trần trụi. Ông muốn được cảm thông. Ông là một kẻ thất bại, ông nói. Bà Ramsay vung vẩy hai chiếc kim đan. Ông Ramsay lặp lại, không hề rời mắt khỏi gương mặt bà, rằng ông là một kẻ thất bại. Bà đáp lại ông mấy từ. “Charles Tansley…” bà nói. Nhưng ông phải được nhiều hơn thế. Điều ông muốn là sự cảm thông, là được khẳng nhận về thiên tài của mình, trước nhất, rồi được đưa vào vòng đời, ấm áp và đầy an ủi, để khôi phục lại những cảm giác của ông, để khoác bộ lông thú lên sự trần trụi của ông, và để mọi căn phòng của ngôi nhà tràn đầy sức sống – phòng khách; sau phòng khách là nhà bếp; phía trên nhà bếp là những phòng ngủ và ở mé ngoài chúng là những phòng cho lũ trẻ; chúng phải được trang bị đồ đạc, chúng phải ngập tràn sự sống.
Charles Tansley nghĩ ông là nhà siêu hình học vĩ đại nhất của thời này, bà nói. Nhưng ông phải có nhiều hơn thế. Ông phải có sự cảm thông. Ông phải an tâm rằng cả ông nữa cũng sống ở ngay trung tâm cuộc sống; được cần đến; không chỉ ở đây, mà trên khắp cả thế gian. Vung đôi kim đan, tự tin, người vươn thẳng, bà tạo ra căn phòng khách và nhà bếp, làm cho tất cả sáng ngời lên; mời ông cứ tự nhiên thoải mái ở đó, đi vào và đi ra, tự tìm vui thú cho mình. Bà cười to, bà đan. Đứng cứng người giữa hai đầu gối của bà, James cảm thấy mọi sức mạnh của bà cháy bùng lên để say sưa và bị dập tắt bởi cái vòi ấm đồng, thanh đao khô cằn của người đàn ông, lúc này đang vỗ mạnh một cách không thương xót, hết lần này sang lần khác, đòi hỏi sự cảm thông.
Ông là một kẻ thất bại, ông lặp lại. Ồ, thế thì nhìn xem, thế thì cảm nhận xem. Vung đôi kim đan, đảo mắt nhìn quanh, ra phía ngoài cửa sổ, vào trong phòng, vào chính thằng James, bà làm cho ông an tâm, không hề có mảy may nghi ngờ nào hết, bằng tiếng cười của bà, tư thế của bà, năng lực của bà (như một người bảo mẫu mang một cây đèn băng qua căn phòng tối để giúp một đứa bé cứng cổ thấy an tâm), rằng thật sự là như vậy; ngôi nhà đầy đủ các thứ; khu vườn đang nở rộ hoa. Nếu ông đặt trọn vẹn niềm tin vào bà, không gì làm ông thương tổn được; bất kể ông tự vùi lấp mình sâu đến thế nào hay trèo cao tới đâu, ông sẽ không bao giờ phát hiện ra không có bà bên cạnh. Kiêu hãnh đến vậy về khả năng bao bọc và bảo vệ của bà, hầu như bản thân bà không còn lớp vỏ bọc nào để biết về chính bản thân mình; tất cả đều quá hoang toàng phung phí; và James, khi đứng cứng người giữa hai đầu gối của bà, cảm thấy bà đang vươn lên thành một thân cây ăn quả nở rộ những bông hoa màu hồng với những chiếc lá và nhánh cây nhảy múa mà cái vòi ấm đồng, thanh đao khô cằn của cha nó, người đàn ông tự cao tự đại, đang cắm vào, đập mạnh vào đó, để đòi hỏi sự cảm thông.   
Phủ phê với những lời nói của bà, như một đứa bé bỏ đi lòng đầy mãn nguyện, cuối cùng ông nói, nhìn bà với vẻ nhún nhường biết ơn, tỏ ra đã khôi phục, đổi mới chính mình, rằng ông sẽ đi một vòng; ông sẽ xem lũ trẻ chơi crikê. Ông đi.  
Ngay lập tức, dường như bà Ramsay tự xếp bản thân mình lại, cánh hoa này ép vào cánh khác, và toàn bộ kết cấu đó kiệt lực rũ xuống chính bản thân nó, khiến bà chỉ còn đủ sức cử động ngón tay lướt qua trang sách truyện cổ Grim, trong khi trạng thái say mê của sáng tạo thành công lan tỏa suốt người bà, như mạch đập của một con suối đã mở rộng hết bề ngang của nó và giờ đây dịu dàng ngưng nhịp vỗ.
Khi ông ấy đã đi khỏi, mỗi nhịp đập của mạch tim này dường như bao gồm cả bà lẫn chồng bà, và mang đến cho mỗi người niềm an ủi mà hai nốt nhạc khác nhau, một cao, một thấp, khi hòa trộn vào nhau dường như cũng trao tặng cho nhau khi chúng kết hợp lại. Thế nhưng khi âm hưởng này đã lặng đi, và bà đã quay trở lại cuốn truyện cổ, bà Ramsay cảm thấy không chỉ sự kiệt sức (bà luôn cảm thấy điều này sau đó, chứ không phải ngay lúc đó) mà còn có một cảm giác khó chịu mơ hồ nào đó với một căn nguyên khác tác động lên sự mệt nhoài thể chất của bà. Bà không biết đích xác nó xuất phát từ cái gì, khi đang đọc to câu chuyện Vợ chồng người ngư phủ; vào lúc đang lật sang trang mới, dừng lại và nghe thấy một đợt sóng vỗ mơ hồ, đầy điềm gỡ, bà cũng không cho phép mình thốt thành lời sự bất mãn của mình khi nhận ra nó đã đến như thế nào từ điều này: bà không thích, thậm chí dù chỉ trong một giây, cảm thấy mình tốt hơn chồng mình; và hơn thế nữa, bà không thể chịu nổi việc không hoàn toàn chắc chắn, khi bà nói với ông về sự thật của điều bà nói. Những trường đại học và mọi người cần tới ông ấy, những bài giảng, những cuốn sách và tầm quan trọng tối cao của chúng – bà không ngờ vực phút giây nào về điều đó; nhưng chính mối quan hệ của họ, và việc ông tới với bà như thế, một cách công khai, khiến bất cứ một ai cũng có thể nhìn thấy, điều đó khiến cho bà lo ngại. vì khi đó mọi người sẽ bảo ông ấy phụ thuộc vào bà, khi họ phải biết rằng trong hai người ông hoàn toàn là người quan trọng hơn, và những gì bà cho thế giới, so với những gì ông cho đi, là không đáng kể. Nhưng lại còn một điều khác nữa – việc không thể nói với ông ấy sự thật vì e ngại, chẳng hạn, về mái của cái nhà kính và chi phí của nó, có lẽ phải tốn năm mươi bảng để sửa chữa nó; rồi về những cuốn sách của ông ấy, sợ rằng ông ấy có thể đoán ra, điều này bà khá nghi ngờ, rằng cuốn sách mới nhất của ông ấy không hoàn toàn là cuốn hay nhất (bà thu lượm được điều đó từ William Bankes); rồi việc phải che giấu những chuyện nhỏ nhặt hàng ngày, bọn trẻ thấy điều này, và gánh nặng đó đè lên chúng – tất cả những điều này đã làm giảm bớt niềm vui trọn vẹn, nỗi hân hoan thuần khiết, của hai nốt nhạc cùng vang lên một lúc, và khiến cho bây giờ âm thanh đó chết lịm trong tai bà với một quãng lặng ảm đạm.
Một bóng người đổ ập lên trang giấy; bà ngẩng lên. Augustus Carmichael đang lê bước ngang qua, chính xác ngay lúc này, ngay cái thời khắc khi quá đau lòng để được nhắc nhở về sự không tương thích của những mối quan hệ giữa con người, rằng mối quan hệ hoàn hảo nhất cũng có khiếm khuyết, và không thể chịu đựng nổi sự thẩm tra mà bà thù ghét, với tình yêu dành cho chồng và với bản năng đối với chân lý của bà; khi quá đau lòng để cảm thấy bản thân bị kết án là vô giá trị, và bị những sự dối trá, những sự cường điệu này cản trở việc thực hiện những chức năng chính đáng của bà – ngay lúc này, khi mà bà cảm thấy nhục nhã như vậy sau khi được tán dương, ông Carmichael lại lê bước ngang qua, chân mang đôi dép lê màu vàng, và một con quỷ nào đó trong bà khiến bà thấy cần phải cất tiếng chào ông ta.
“Vào trong nhà hở, ông Carmichael?”    


8

Ông ta chẳng nói lời nào. Ông ta đi lấy thuốc phiện. Lũ trẻ nói ông ta đã nhuộm vàng bộ râu với nó. Có lẽ thế. Điều hiển nhiên với bà là ông lão khốn khổ này không hạnh phúc, đến với họ hàng năm như để chạy trốn; thế nhưng mỗi năm bà lại cảm thấy y như cũ: ông ta không tin  bà. Bà nói, “Tôi sẽ vào thị trấn. Tôi kiếm cho ông ít tem, giấy hay thuốc lá nhé?” và cảm thấy ông ta nhăn mặt. Ông ta không tin bà. Đó là do vợ ông ta. Bà nhớ tới tội lỗi của người vợ đối với ông ta, điều khiến cho bà biến thành sắt đá ở đó, trong cái căn phòng nhỏ kinh khủng ở St. John’s Wood, khi bà tận mắt chứng kiến người đàn bà kinh tởm đó tống cổ ông ta ra khỏi nhà. Ông ta ăn mặc lôi thôi lếch thếch; ông ta đánh đổ mọi thứ lên áo khoác; ông ta có cái vẻ mệt nhọc của một ông già chẳng có việc gì trên đời để làm cả; và bà ta đã tống ông ta khỏi căn phòng. Bà ta nói, với cái kiểu cách đáng ghét của mình, “Bây giờ, bà Ramsay và tôi muốn trò chuyện với nhau một chút,” và bà Ramsay có thể nhìn thấy, như thể đang trước mặt mình, vô số những bất hạnh của cuộc đời ông ta. Ông ta có đủ tiền mua thuốc lá hay không? Ông ta có phải hỏi xin bà ta? nửa đồng crown? mười tám xu? Ôi chao, bà không thể không nghĩ tới những sỉ nhục nho nhỏ mà bà ta trút lên đầu ông ta. Và bây giờ ông ta né tránh bà (vì sao thì bà không thể đoán ra, ngoại trừ rằng theo cách nào đó có thể nó xuất phát từ người đàn bà đó). Ông ta không bao giờ nói gì với bà. Nhưng bà có thể làm gì hơn? Có một căn phòng sáng sủa dành cho ông ta. Lũ trẻ đối xử tốt với ông ta. Bà chưa bao giờ tỏ ra một dấu hiệu nào rằng không muốn ông ta tới. Thật sự bà đã vượt khỏi cung cách ứng xử của mình để tỏ ra thân thiện với ông ta. Ông có cần tem không, có cần thuốc lá không? Đây là một cuốn sách mà có thể ông sẽ thích, vân vân. Và nói cho cùng – nói cho cùng (tới đây bà vô tình vươn thẳng người lên, một cách vật chất, ý thức về vẻ đẹp của chính bà, như đã từng xảy ra nhưng rất hiếm hoi, trở nên hiển hiện đối với bà), nói cho cùng, nhìn chung bà không gặp bất kỳ khó khăn nào trong việc làm cho mọi người thích bà; ví dụ như George Manning; như ông Wallace; tiếng tăm lừng lẫy như thế, nhưng họ sẽ tới nhà bà một chiều nào đó, một cách lặng lẽ, và nói chuyện một mình cạnh lò sưởi của bà. Bà thấy phát chán bản thân mình, bà không thể không biết điều đó vẻ đẹp như ánh đuốc rạng ngời của bà; bà mang nó thẳng vào bất kỳ căn phòng nào mà bà bước vào; và nói cho cùng, dù bà cố hết sức che đậy nó, cố lánh xa khỏi cảm giác đơn điệu rằng nó lừa phỉnh mình, vẻ đẹp của bà là hiển  nhiên. Bà đã được ngưỡng mộ. Bà đã được yêu. Bà đã từng đi vào những căn phòng nơi những người than khóc ngồi. Những giọt lệ đã rơi trong sự hiện diện của bà. Những người đàn ông, và cả những người đàn bà nữa, luôn tiếp cận với tính chất đa chiều của sự vật, đã tự cho phép họ tìm ở bà sự nhẹ nhõm của tính chất giản dị. Việc ông ta né tránh bà khiến bà bị tổn thương. Nó làm bà tổn thương. Thế nhưng lại không phải theo một cách êm xuôi, một cách đúng đắn. Đó chính là điều mà bà lưu tâm hướng tới trong lúc bất mãn tột độ với chồng mình; bây giờ, khi ông Michael lê chân đi ngang qua, chỉ gật đầu đáp lại câu hỏi của bà, với một cuốn sách cặp dưới cánh tay, với đôi dép lê màu vàng, bà có cảm giác rằng mình bị nghi ngờ; rằng tất cả mong muốn cho đi, giúp đỡ của bà chỉ là hảo huyền vô nghĩa. Có phải chính vì sự tự mãn nguyện của chính mình mà bà mong muốn một cách bản năng để cho đi, để giúp đỡ, để mọi người có thể nói về bà, “Ồ, bà Ramsay! Bà Ramsay thân mến…, bà Ramsay ư, dĩ nhiên!” và cần tới bà, kêu gọi bà và ngưỡng mộ bà? Có phải đây chính là điều mà bà kín đáo mong muốn, và do đó khi ông Michael tránh né bà, như ông ta đang làm ngay lúc này, để lẩn tới một góc phòng nơi ông ta sẽ làm những câu thơ acrotic[1] vô tận, bà không chỉ cảm thấy mất mặt một cách bản năng mà còn nhận thức ra sự nhỏ nhen của một phần nào đó trong bà, và về những mối quan hệ con người, chúng thật khiếm khuyết làm sao, ti tiện làm sao, tự tư tự lợi làm sao. Tiều tụy và xác xơ, và hẳn nhiên không còn là một hình ảnh phủ đầy đôi mắt với niềm vui nữa, tốt hơn bà nên dành tâm trí mình cho câu chuyện Vợ chồng người ngư phủ, nhờ đó làm nguôi khuây cái tính nhạy cảm dễ bị tổn thương của thằng James con trai bà (không có đứa nào trong lũ con của bà nhạy cảm nhiều như nó). 
“Trái tim của người đàn ông trở nên nặng trĩu,” bà đọc lớn, “và ông ta không đi. Ông ta tự nhủ với mình, ‘Như thế không đúng,’ và thế là ông ta ra đi. Khi ông ta ra tới biển, mặt nước tím và xanh thẳm, xám và dầy, không còn màu xanh lá và vàng, nhưng nó vẫn lặng yên. Ông ta đứng đó và nói…”
Bà Ramsay ước chi chồng bà đừng chọn ngay lúc đó để dừng lại. Vì sao ông ấy không làm như đã nói, đi xem bọn trẻ chơi crikê? Nhưng ông không nói; ông nhìn; ông gật đầu; ông bằng lòng; ông đi tiếp. Ông bị trượt chân, nhìn thấy ở phía trước ông cái hàng giậu cứ bao vòng hết lần này sang lần khác quanh một điểm dừng nào đó, biểu thị một kết luận nào đó, nhìn thấy vợ và con ông, nhìn thấy lại chậu hoa phong lữ thảo đỏ đã nhiều lần trang hoàng cho những quá trình tư duy, và đã viết lại trên những chiếc lá của chúng, như thể chúng là những mảnh giấy mà trên đó người ta viết nguệch ngoạc những dòng chữ trong tiếng đọc vội vã – trong khi nhìn thấy tất cả những điều này, ông trượt một cách êm ái vào sự suy tư được gợi lên bởi một bài báo trong tờ The Times về con số những người Mỹ viếng thăm ngôi nhà của Shakespeare hàng năm. Nếu như Shakespeare chưa bao giờ tồn tại, ông tự hỏi, thế giới có khác gì nhiều lắm so với nó ngày nay không? Tiến trình của văn minh có phụ thuộc vào những nhân vật vĩ đại hay không? Những con người bình thường hiện nay có tốt hơn so với thời của những Pharaoh không? Tuy nhiên, những người bình thường, ông tự hỏi, có phải là tiêu chí để từ đó chúng ta phán xét tầm mức của văn minh hay không? Có lẽ là không. Có lẽ nền văn minh tốt đẹp nhất đòi hỏi sự tồn tại của một giai cấp nô lệ. Người gác cửa tàu điện ngầm là một sự cần thiết muôn thuở. Ý nghĩ này thật ghê tởm đối với ông. Ông lắc mạnh đầu. Để tránh nó, ông sẽ tìm ra một cách nào đó để làm mất mặt ưu thế của các môn nghệ thuật. Ông sẽ lý luận rằng thế giới tồn tại cho con người bình thường; rằng các môn nghệ thuật đơn giản chỉ là một sự trang trí được gán lên đỉnh của đời người; chúng không thể hiện nó. Cả Shakespeare cũng không cần thiết đối với nó. Không biết chính xác vì sao ông lại muốn hạ bệ Shakespeare và hướng tới sự giải cứu cái con người đang đứng vĩnh viễn ở cửa tàu điện ngầm, ông ngắt một chiếc lá từ hàng giậu. Tất cả những điều này sẽ phải được trình bày trước những chàng trai ở trường đại học Cardiff vào tháng sau, ông nghĩ; ở đây, trên sân nhà, ông chỉ cắt cỏ và dạo chơi (ông vứt bỏ chiếc lá mà ông đã bứt một cách cáu kỉnh) như một người rời khỏi lưng ngựa để hái một bó hoa hồng, hay nhét đầy vào túi mình những quả hạch khi anh ta thoải mái cho ngựa đi nước kiệu qua những con đường làng và những cánh đồng mà anh ta đã biết rõ từ thời thơ ấu. Tất cả đều quen thuộc; chỗ ngoặt này, cái bục trèo cắt ngang qua những cánh đồng kia. Anh ta sẽ dành nhiều giờ trong một buổi chiều, với cái ống tẩu, suy nghĩ ngược xuôi mọi lẽ về những con đường làng và những con người bình dân xưa cũ quen thuộc, tất cả đều gắn vào lịch sử của cái chiến dịch ở kia, cuộc đời của tay chính khách này ở đây, với những bài thơ và những giai thoại, với những nhân vật nữa, nhà tư tưởng này, người lính nọ; tất cả đều rất trong sáng rõ ràng; nhưng cuối cùng con đường làng, cánh đồng, kẻ bình dân, cây quả hạch đầy trái và hàng giậu nở hoa dẫn anh ta tới chỗ ngoặt xa hơn của con đường nơi anh ta luôn luôn xuống ngựa, cột con ngựa của mình vào một thân cây, rồi tiếp tục đi bộ một mình. Ông tới rìa bãi cỏ và nhìn ra cái vịnh bên dưới.
Chính số phận của ông, tính cách lạ thường của ông, dù ông muốn có nó hay không, đã khiến cho ông đi ra một mảnh đất mà biển cả đang dần dần nuốt mất, và đứng đó, một mình, như một con chim biển cô đơn. Chính năng lực của ông, thiên tài của ông, đã khiến cho ông đột ngột vứt bỏ mọi thứ thừa thãi, tự co rút và giảm thiểu chính mình để trông ông có vẻ trần trụi hơn và cảm thấy tự do hơn, thậm chí về mặt vật chất, thế nhưng không hề mất đi chút cường độ tinh thần nào, và cứ đứng như thế trên rẻo đất bé nhỏ của mình đối mặt với sự ngu dốt của loài người, chúng ta không biết gì hết và biển cả đang nuốt dần mảnh đất ta đang đứng bên trên – đó là định mệnh của ông, thiên tài của ông. Nhưng sau khi đã xuống ngựa, vứt bỏ mọi điệu bộ và mọi thứ trang trí rẻ tiền, mọi chiến tích về quả hạch và hoa hồng, và co rút lại khiến cho không chỉ danh vọng của ông mà ngay cả cái tên riêng của ông cũng bị lãng quên đi bởi chính ông, chỉ giữ lại ngay cả trong sự lẻ loi hiu quạnh đó một sự cảnh giác đã quét sạch mọi bóng ma và viễn tượng, và chính trong cái lốt mà ông được khơi gợi từ William Bankes (đôi lúc đôi nơi) và từ Charles Tansley (một cách quỳ lụy) và từ vợ ông ngay bây giờ, khi bà ngẩng lên và thấy ông đang đứng ở rìa bãi cỏ, thâm trầm, tôn kính, thương hại, và cả biết ơn, như một cái cọc cắm sâu xuống đáy của một eo biển mà bên trên đó những con chim mòng biển đậu và những lượn sóng hân hoan vỗ nhịp cho một cảm giác biết ơn đối với trách vụ mà nó tự nhận lấy trong việc đơn độc đánh dấu cái eo biển giữa dòng nước lũ ngoài kia.  
“Nhưng người cha của tám đứa con không có quyền chọn lựa.” Ông lẩm bẩm thành tiếng, kết thúc, quay lại, thở dài, đưa mắt lên tìm kiếm hình dáng của người vợ đang đọc truyện cho đứa con trai bé bỏng, nhồi thuốc vào ống tẩu. Ông quay lưng khỏi hình ảnh về sự ngu dốt của con người, định mệnh của con người và biển cả đang nuốt dần mảnh đất mà chúng ta đứng bên trên mà nếu ông có thể chiêm ngắm một cách chăm chú có lẽ nó sẽ dẫn ông tới một điều gì đó; và phát hiện ra rằng việc tìm sự nguôi khuây trong những điều vụn vặt là quá nhẹ nhàng so với chủ đề uy nghiêm ngay lúc này đang ở trước mặt ông đến mức ông sẵn sàng xóa nhòa đi niềm an ủi đó, phản kháng nó, như thể việc bị bắt gặp đang hạnh phúc trong một thế giới đầy bất hạnh là một trong những tội ác ti tiện nhất đối với một con người trung thực. Đúng thế; đa phần ông thuộc về phía hạnh phúc; ông có vợ; ông có lũ con; ông đã hứa sẽ nói “đôi điều phi lý” trong thời gian sáu tuần với những chàng trai trẻ ở Cardiff về Locke[2], Hume[3], Berkeley[4] và những nguyên nhân của Cách mạng Pháp. Nhưng điều này và niềm vui của ông trong nó, sự vinh quang của ông trong những lời giảng của ông, trong bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ, trong vẻ đẹp của vợ ông, trong những cống phẩm được chuyển tới ông từ các trường đại học Swansea, Cardiff, Exeter, Southampton, Kidderminster, Oxford, Cambride – tất cả phải bị phản đối và che đậy dưới cụm từ “nói những điều phi lý”, bởi lẽ, rốt cuộc ông đã không thực hiện được những điều mà lẽ ra ông phải hoàn thành. Đó là một sự ngụy trang; đó là nơi ẩn náu của một con người e sợ chính những cảm giác của mình, kẻ không thể nói: Đây là điều tôi thích – đây là con người của tôi; và khá đáng thương cũng như đáng ghét đối với William Bankes và Lily Briscoe, những người tự hỏi tại sao những che đậy như thế lại là cần thiết; tại sao ông luôn cần tới lời ca tụng; tại sao một người dũng cảm trong tư tưởng như thế lại quá hèn nhát trong cuộc sống; thật kỳ lạ khi ông vừa đáng kính lại vừa đáng nực cười trong cùng một lúc.
Việc dạy học và giảng đạo nằm ngoài khả năng của con người, Lily ngờ vực nói. (Cô đang dọn dẹp những đồ đạc của mình). Nếu bạn được tán tụng, theo cách nào đó bạn sẽ thất bại thảm thương. Bà Ramsay cho ông ta những gì ông ta yêu cầu một cách quá dễ dàng. Vậy thì sự thay đổi phải rất đáng ngại, Lily nói. Ông ấy bước vào từ những quyển sách của ông ấy và thấy tất cả chúng ta đang chơi những trò chơi và nói những chuyện phi lý. Hãy tưởng tượng sự thay đổi từ những điều mà ông ta nghĩ đến sẽ như thế nào, cô nói.
Ông ta đang tiến về phía họ. Bây giờ ông ta dừng lại bất động và đứng lặng nhìn ra biển cả. Bây giờ ông ta lại quay đi lần nữa.
         

9

Phải, ông Bankes nói, nhìn ông ta bước đi. Thật ngàn lần đáng tiếc. (Lily đã nói gì đó về việc ông ta làm cô sợ hãi – ông ta thay đổi từ tâm trạng này sang tâm trạng khác rất đột ngột). Phải, ông Bankes nói, thật ngàn lần đáng tiếc rằng Ramsay không thể xử sự giống những người khác hơn chút xíu. (Vì ông thích Lily Briscoe; ông có thể trao đổi về Ramsay với cô hoàn toàn cởi mở). Chính vì lý do đó, ông nói, mà lũ thanh niên không đọc Carlyle[5]. Một lão già cáu kỉnh càu nhàu luôn nổi nóng nếu món cháo đặc bị lạnh. Vì sao ông ta lại thuyết giảng chúng ta? ông Bankes hiểu rằng đó là điều mà những người trẻ tuổi ngày nay nói. Thật ngàn lần đáng tiếc nếu bạn nghĩ, như ông ta, rằng Carlyle là một trong những vị thầy vĩ đại của loài người. Lily xấu hổ nói rằng cô chưa hề đọc Carlyle hồi còn đi học. Nhưng theo ý cô một người như ông Ramsay rất có thể nghĩ rằng nếu ngón tay út của mình bị đau thì toàn thế gian phải tới hồi tận số. Đó không phải là thứ mà cô quan tâm.
Vì ai có thể bị lừa bởi ông ta được chứ? Hoàn toàn công khai, ông ta yêu cầu bạn tâng bốc ông ta, ngưỡng mộ ông ta, những mánh lới nhỏ nhặt của ông ta chẳng lừa được ai cả. Cái mà cô không thích là sự hẹp hòi của ông ta, sự mù lòa của ông ta, cô nói, nhìn về hướng ông ta.
“Hơi đạo đức giả phải không?” ông Bankes đề xuất, cũng nhìn về hướng ông Ramsay, có phải là ông đã không suy nghĩ về tình bạn của mình, về việc Cam từ chối tặng cho ông một bông hoa, về tất cả những đứa con trai và con gái đó, và về ngôi nhà của chính ông, với đầy niềm an ủi, nhưng từ khi vợ ông chết đi đã khá là quạnh quẽ?  Tất nhiên ông có công việc của mình… Đồng thời, ông muốn Lily cũng đồng ý rằng Ramsay, như ông nói, “hơi đạo đức giả.”
Lily Briscoe tiếp tục dọn dẹp những cây cọ, nhìn xuống, ngẩng lên. Ngẩng lên, ông ta kia rồi – ông Ramsay – đang tiến về phía họ, dáng lắc lư, bất cẩn, lơ đãng, xa vắng. Hơi đạo đức giả? cô lặp lại. Ồ, không, kẻ chân thật nhất, kẻ đúng đắn nhất (ông ta tới đây rồi), kẻ tốt nhất; nhưng, nhìn xuống, cô nghĩ, ông ta say mê chính mình, ông ta chuyên chế, ông ta bất công; và tiếp tục nhìn xuống, một cách cố tình, vì chỉ có như thế cô mới có thể tiếp tục ở lại với gia đình Ramsay. Nếu ngẩng lên và nhìn họ một cách trực tiếp, cái mà cô gọi là “cảm giác yêu thương” sẽ nhấn chìm họ. Họ trở thành một phần của cái vũ trụ không có thật nhưng sâu sắc và thú vị, một thế giới được nhìn thông qua những đôi mắt của tình yêu. Bầu trời gắn liền vào họ; lũ chim hót ca thông qua họ. Và một điều thậm chí còn thú vị hơn, khi nhìn thấy ông Ramsay đang đi ngược xuống và rút lui, còn bà Ramsay thì ngồi với James ở cửa sổ, vầng mây đang chuyển động còn thân cây đang ngã bóng xuống, cô cảm thấy cuộc sống, hình thành từ những sự kiện riêng biệt mà người ta lần lượt sống với chúng, trở nên uốn cong và trọn vẹn như một lượn sóng nâng người ta lên rồi ném người ta xuống với một tiếng vỗ ầm ào trên bờ biển.
Ông Bankes đang chờ cô trả lời. Và khi cô sắp nói một điều gì đó để chỉ trích bà Ramsay, rằng cả bà ấy cũng có vẻ, theo cái kiểu của bà ấy, độc đoán, hay từ ngữ nào đó tương tự, ông Bankes chợt biến việc đó thành không cần thiết bằng trạng thái say mê của mình. Đó là một điều đáng quan tâm, ở lứa tuổi bước sang sáu mươi của ông, sự sạch sẽ và khách quan của ông, và chiếc áo choàng trắng của nhà khoa học dường như đang trùm lên người ông. Vì việc ông đang nhìn đăm đăm bà Ramsay trong lúc Lily nhìn ông là một trạng thái mê ly, ngang với tình yêu của hàng tá thanh niên, Lily cảm thấy thế (và có lẽ bà Ramsay chưa bao giờ kích thích tình yêu của hàng tá thanh niên trẻ tuổi). Đó là thứ tình yêu, cô nghĩ, giả vờ di chuyển bức vẽ của mình, đã được chưng cất và tinh lọc; một thứ tình yêu không bao giờ nỗ lực giữ chặt lấy đối tượng của nó; nhưng giống như loại tình yêu mà những nhà toán học dành cho những ký hiệu của họ, hay những thi sĩ dành cho những ngôn từ của họ, hướng tới việc lan trải chúng ra khắp thế gian và biến chúng trở thành một phần của lợi ích nhân loại. Thật sự là như thế. Thế gian ở mọi ý nghĩa hẳn sẽ chia sẻ nó, nếu như ông Bankes có thể nói vì sao người đàn bà đó khiến cho ông hài lòng đến vậy; vì sao cảnh tượng bà đọc một câu chuyện cổ cho con trai lại tác động lên ông giống hệt như một giải pháp về một vấn đề khoa học, giúp ông nghỉ ngơi trong vòng tay an ủi của nó, và có một cảm giác, như khi ông chứng minh được một cái gì đó tuyệt đối về hệ thống tiêu hóa của những loài cây cỏ, rằng sự dã man đã được thuần hóa, sự thống trị của hỗn mang đã sụp đổ.
Một trạng thái mê ly như thế – vì người ta còn có thể gọi nó bằng cái tên nào khác nữa? – khiến cho Lily Briscoe hoàn toàn quên bẳng điều mà cô định nói. Nó chẳng có gì là quan trọng; một điều gì đó về bà Ramsay. Nó bị lu mờ sau “trạng thái mê ly” này, ánh nhìn đăm đăm câm lặng này, điều mà cô thấy rất đỗi biết ơn; vì không có gì khiến cho cô thấy an ủi, xoa dịu cô trong mớ rối rắm phức tạp của cuộc đời, và cởi bỏ gánh nặng của nó một cách diệu kỳ như quyền năng siêu phàm này, món quà tặng trời cho này, một trạng thái mà người ta không thể quấy rầy trong khi nó đang tồn tại, giống như không thể phá vỡ những tia nắng mặt trời đang rọi ngang qua sàn nhà.  
Việc mọi người nên yêu như thế này, việc ông Bankes nên cảm thấy điều này đối với bà Ramsay (cô lặng lẽ liếc nhìn ông) thật hữu ích, thật cao quý. Cô chùi lần lượt từng cây cọ vào một mảnh giẻ cũ một cách đầy dụng ý. Cô tìm chỗ ẩn núp khỏi lòng sùng kính bao trùm lên tất cả mọi người phụ nữ; cô cảm thấy bản thân mình được ngợi ca. Cứ để ông ấy nhìn; cô sẽ xem lại bức tranh của mình một lúc.
Cô có thể khóc lên được. Nó thật tệ, nó thật xấu, nó xấu vô cùng! Dĩ nhiên, hẳn cô có thể thực hiện nó một cách hoàn toàn khác hẳn; màu sắc có thể mỏng hơn và nhạt hơn; những đường nét có thể thanh tao hơn; hẳn đó là cách mà Paunceforte đã nhìn thấy nó. Nhưng khi đó cô đã không nhìn thấy nó như thế này. Cô nhìn thấy màu sắc cháy bùng trên một cái khung thép; ánh sáng của cánh một con bướm đang nằm trên vòm một nhà thờ. Tất cả những thứ đó chỉ còn là một vài dấu vết ngẫu nhiên trên bức vẽ. Và nó sẽ không bao giờ được nhìn thấy; thậm chí không bao giờ được treo lên, và có tiếng thì thầm của Tansley trong tai cô, “Đàn bà không thể vẽ, đàn bà không thể viết…”
Bây giờ thì cô nhớ ra điều mà cô định nói về bà Ramsay. Cô không biết cô nên nói như thế nào; nhưng đó là một câu gì đó có tính phê phán. Đêm hôm trước cô đã phiền lòng bởi một thái độ độc đoán. Nhìn cái cách ông Bankes đăm đăm ngó bà ấy, cô nghĩ rằng không một phụ nữ nào có thể tôn thờ một phụ nữ khác theo cách mà ông tôn thờ; họ chỉ có thể tìm nơi ẩn núp bên dưới cái bóng mà ông Bankes đã mở rộng lên cả hai người bọn họ. Nhìn theo ánh mắt của ông, cô thêm vào tia mắt khác biệt của mình, nghĩ rằng không còn ngờ gì nữa bà ấy là người đáng yêu nhất (cúi đầu bên trên cuốn sách); có lẽ là người tốt nhất; nhưng cũng khác với hình dáng hoàn hảo một người ta nhìn thấy ở đó. Nhưng vì sao khác, và khác như thế nào? cô tự hỏi mình, cạo ra khỏi bảng màu tất cả những cục màu xanh dương và xanh lá mà bây giờ đối với cô dường như chúng là những cục đất không có sự sống bên trong, thế nhưng cô nguyện rằng ngày mai cô sẽ đem tới cho chúng hơi thở, buộc chúng phải chuyển động, chảy tuôn, tuân theo mệnh lệnh của cô. Nhưng bà ấy khác biệt như thế nào? Đâu là linh hồn bên trong bà ấy, điều cốt lõi mà nhờ đó nếu bạn tìm thấy một chiếc găng tay nhàu nát trên một chiếc ghế sofa, hẳn bạn sẽ biết, từ ngón tay vặn vẹo của nó, rằng nó là của bà ấy? Bà ấy giống như một con chim tượng trưng cho tốc độ, một mũi tên tượng trưng cho sự thẳng thắn. Bà ấy bướng bỉnh; bà ấy đòi hỏi cao (dĩ nhiên, Lily tự nhắc nhở, mình đang nghĩ về những mối quan hệ giữa bà ấy với những người phụ nữ, và mình là một cô gái trẻ hơn nhiều, một con người không quan trọng, sống ở phố Brompton). Bà ấy mở những cửa sổ phòng ngủ. Bà ấy đóng những cửa ra vào. (Cô cố gắng hình dung lại âm điệu của bà Ramsay trong đầu mình). Tới muộn vào ban tối, với một tiếng gõ nhẹ vào cửa phòng ngủ của người ta, trùm kín người trong một cái áo choàng lông cũ (vì nền tảng vẻ đẹp của bà luôn là thế – vội vàng nhưng thích hợp), bà ấy sẽ diễn tả lại bất cứ chuyện gì – Charles Tansley đánh mất cây dù của anh ta; ông Carmichael lê chân và khụt khịt; ông Bankes đang nói, “Muối trong rau củ đã mất.” Bà khéo léo mô tả lại tất cả những điều này; thậm chí nhăn mặt một cách thâm hiểm; rồi bước tới chỗ cửa sổ, giả vờ rằng bà ấy phải đi – trời đã rạng, bà ấy có thể nhìn thấy mặt trời đang lên – rồi quay nửa người trở lại, thân mật hơn, nhưng vẫn luôn cười lớn, khăng khăng rằng cô phải, Minta phải, tất cả bọn họ phải kết hôn, vì trên khắp cõi thế gian này bất cứ vinh quang nào cũng có thể lọt vào tay cô (nhưng bà Ramsay nào có đếm xỉa cóc khô gì tới công việc vẽ vời của cô đâu), hoặc cô có thể chiến thắng bất cứ cái gì (có lẽ bà Ramsay sẽ nhận được phần chia của mình trong những thắng lợi đó), và tới đây bà trở nên buồn bã u sầu, quay trở lại chiếc ghế của mình, không thể tranh luận gì về điều này: một phụ nữ không kết hôn (bà ấy nhẹ nhàng nắm lấy tay cô một lúc), một người phụ nữ không kết hôn sẽ bỏ lỡ phần tốt đẹp nhất của cuộc đời. Ngôi nhà dường như đầy những đứa trẻ con đang thiếp ngủ và bà Ramsay lắng nghe; những ngọn đèn tỏa bóng và hơi thở đều đều.
Ồ, nhưng, Lily nói, cô còn có cha cô; nhà cô, thậm chí, nếu như cô dám nói ra, công việc vẽ tranh của cô. Nhưng tất cả những thứ này dường như quá bé mọn, quá trinh bạch so với chuyện kia. Thế nhưng, khi màn đêm tan loãng đi, và những tia sáng trắng luồn qua những bức màn che cửa, thậm chí thỉnh thoảng còn có một con chim hót líu lo trong vườn, tập trung lại toàn bộ sự dũng cảm tuyệt vọng, cô thường tự ban cho mình một ngoại lệ khỏi quy tắc thông thường; để tự biện hộ; cô thích ở một mình; cô thích là chính bản thân mình; cô không được tạo ra cho việc đó, và thế là phải đáp lại một cái nhìn nghiêm khắc từ đôi mắt sâu thẳm khôn dò đó, đối diện với sự khẳng nhận đơn giản của bà Ramsay (bây giờ thì cô cũng giống như trẻ con) rằng Lily thân yêu của bà, cô bé Brisk của bà, là một cô nàng ngốc nghếch. Thế rồi, cô nhớ, cô đã đặt đầu mình lên đùi của bà Ramsay và cười to, cười sặc sụa, gần như phát cuồng lên với ý nghĩ về việc bà Ramsay tự đứng ra đảm nhận trách nhiệm đối với những định mệnh với sự bình thản bất di bất dịch mà cô hoàn toàn không thể hiểu. Bà ấy ngồi đó, giản dị, nghiêm trang. Bây giờ bà đã khôi phục lại ý thức về mình – đây là ngón tay vặn vẹo của chiếc găng tay. Nhưng người ta đã xâm nhập vào chốn tôn nghiêm thầm kín nào rồi? Cuối cùng Lily Briscoe ngẩng đầu lên, và kia là bà Ramsay, hoàn toàn không hiểu nổi vì sao cô lại phá ra cười, vẫn còn gánh vác trách nhiệm, nhưng bây giờ thì đã xóa sạch mọi dấu vết của tính ngang ngạnh, và thay vào đó, là một cái gì đó rõ ràng như khoảng không gian nơi cuối cùng những đám mây cũng để lộ ra – khoảng không gian bé nhỏ của bầu trời đang thiếp ngủ bên dưới vầng trăng.  
Có phải đó là sự khôn ngoan? Có phải đó là tri thức? Một lần nữa, có phải đó là sự dối lừa của vẻ đẹp, khiến tất cả những ý niệm của người ta, giữa chặng đường tới chân lý, bị vướng vào một mạng lưới bằng vàng lóng lánh? Hay bà ấy đã chôn kín trong lòng một bí mật nào đó mà Lily tin một cách chắc chắn rằng nói cho cùng mọi người đều phải có, để thế giới tiếp tục tiến lên. Mọi người không thể sống một cách rối rắm, cầm cự từng ngày như bà ấy. Nhưng nếu họ biết, họ có thể nói cho người khác điều họ biết hay không? Ngồi trên sàn nhà, đôi tay vòng quanh đầu gối của bà Ramsay, gần gũi hết mức trong phạm vi có thể, cô mỉm cười khi nghĩ rằng bà Ramsay không thể nào hiểu nổi lý do của áp lực đó, cô hình dung ra cách sắp xếp của những ngăn phòng tâm trí của người phụ nữ mà về phương diện vật chất đang vuốt ve cô này; chúng giống như những kho báu trong những lăng tẩm của các vị vua, những phiến đá khắc những dòng chữ thiêng liêng mà nếu như người ta có thể đọc ra sẽ có thể dạy cho họ biết mọi điều, nhưng chúng không bao giờ công khai lộ diện, không bao giờ được đưa ra công chúng. Ở đó có nghệ thuật gì về tình yêu hay sự xảo trá đã biết mà nhờ đó người ta băng qua những căn phòng bí mật? Công cụ nào để trở thành một, như nước được rót vào một cái bình, với đối tượng mà người ta yêu quý? Thân thể, hay tâm trí, có thể hòa trộn một cách tế vi vào những hành lang rắc rối của bộ não? hay của trái tim? Tình yêu, như mọi người gọi nó, có thể biến cô và bà Ramsay thành một? Vì cái mà cô khát khao không phải là tri thức mà là sự hợp nhất, không phải là những dòng chữ trên những phiến đá, không phải những gì có thể được viết ra bằng bất kỳ thứ ngôn ngữ nào mà những người đàn ông biết, mà là bản thân sự thân tình, và đó cũng chính là tri thức, cô đã nghĩ thế khi tựa đầu trên đầu gối của bà Ramsay.
Chẳng có gì xảy ra hết. Chẳng có gì! Chẳng có gì! Khi cô tựa đầu lên đầu gối của bà Ramsay. Thế nhưng cô biết tri thức và sự khôn ngoan ẩn chứa trong trái tim của bà ấy. Vậy thì làm sao người ta có thể biết điều này hay điều nọ về mọi người, cô tự hỏi, khi họ cứ kín như bưng? Chỉ như một con ong, bị lôi kéo bởi một mùi vị ngọt ngào sắc sảo trong không khí nhưng không thể tiếp xúc bằng xúc giác hay vị giác, người ta lui tới cái tổ hình vòm trải dài khắp các bãi sa mạc không khí trên khắp những quốc gia của thế gian, và rồi lui tới những cái tổ ong với tiếng rì rầm và những âm thanh sôi nổi của chúng; những cái tổ ong, đó là mọi người. Bà Ramsay đứng lên. Lily đứng lên. Bà Ramsay đi. Vì những ngày tháng đang vây quanh bà ấy – như sau một giấc mơ một sự thay đổi tế vi nào đó đã được cảm nhận trong cá nhân mà người ta mơ thấy – còn sâu sắc hơn bất cứ điều gì bà ấy nói, âm thanh của tiếng thì thầm, và khi bà ấy ngồi trong cái ghế đan bằng cành liễu bên trong cửa sổ phòng khách, dưới đôi mắt của Lily, bà ấy khoác một hình dáng uy nghi; hình dáng của một mái vòm.
Tia nhìn này song hành với tia nhìn của ông Bankes, hướng thẳng tới bà Ramsay đang ngồi đọc ở đó với thằng James ở đầu gối của bà. Nhưng giờ đây trong lúc cô vẫn còn đang nhìn, ông Bankes đã thực hiện xong điều đó. Ông mang đôi kính vào. Ông lùi trở lại. Ông giơ bàn tay của mình lên. Ông hơi nheo đôi mắt xanh trong sáng của mình khi Lily, đã tỉnh táo trở lại, chợt nhìn thấy điều mà ông đang hướng tới, và nhăn mặt như một con chó nhìn thấy một bàn tay giơ lên để đánh nó. Lẽ ra cô đã giật bức tranh của mình ra khỏi giá vẽ, nhưng cô tự nhủ với mình, Người ta phải nhìn thấy nó. Cô dốc hết sức để chịu đựng sự thử thách đáng sợ là có ai đó nhìn vào bức tranh của cô. Người ta phải nhìn thấy, cô nói, người ta phải. Và nếu nó phải được nhìn thấy thì ông Bankes ít đáng ngại hơn bất kỳ ai khác. Nhưng việc đôi mắt của bất kỳ một kẻ nào đó nhìn thấy phần lắng đọng của ba mươi ba năm trong đời cô, phần lắng đọng của sự sống hàng ngày hòa lẫn với một cái gì đó bí ẩn hơn những gì mà cô từng thốt lên hay thể hiện trong suốt những ngày này, là một nỗi thống khổ. Đồng thời nó cũng vô cùng kích thích.
Không gì có thể bình thản và lặng lẽ hơn thế. Cầm lấy một con dao nhíp, ông Bankes gõ cái cán dao bằng xương lên bức tranh. Cô muốn biểu thị điều gì với hình tam giác màu tím, “ngay ở đó”? ông hỏi.  
Đó là bà Ramsay đang đọc cho James nghe, cô nói. Cô biết sự phản đối của ông, rằng chả có ai có thể nói đó là hình dáng của một con người. Nhưng cô không cố gắng vẽ cho giống bao giờ, cô nói. Cô thể hiện chúng vì lý do gì? ông hỏi. Thật sự là vì sao? – ngoại trừ một việc rằng nếu ở đó, trong cái góc đó, vẫn đang sáng sủa, thì ở đây, cô cảm thấy sự cần thiết của bóng tối. Đơn giản, rõ ràng, tầm thường như chính nó, ông Bankes nhận thấy. Người mẹ và đứa con – những đối tượng của lòng sùng kính phổ quát, và trong trường hợp này người mẹ nổi tiếng vì vẻ đẹp của bà ta – có thể bị giảm thiểu đi, ông suy ngẫm, thành một cái bóng màu tím mà không hề có chút gì bất kính.
Nhưng bức tranh không nói về họ, cô nói. Hoặc, không theo cách cảm nhận của ông. Còn có những cách cảm nhận khác mà trong đó người ta có thể sùng kính họ. Bởi một bóng tối ở đây và một ánh sáng ở đó, chẳng hạn. Sự bày tỏ lòng tôn kính của cô nằm dưới hình thức đó, nếu, như cô mơ hồ tin tưởng, một bức tranh phải là một sự bày tỏ lòng tôn kính. Một người mẹ và một đứa con có thể bị giảm trừ thành một cái bóng mà không hề bất kính. Một ánh sáng ở đây đòi hỏi phải có một bóng tối ở kia. Ông cân nhắc xét suy. Ông đón nhận nó theo tinh thần khoa học với niềm tin tưởng trọn vẹn. Sự thật là tất cả những định kiến của ông đều nằm ở phía khác, ông giải thích. Bức tranh lớn nhất trong phòng khách của ông, mà những họa sĩ từng ca ngợi, có giá trị cao hơn cái giá mà ông đã trả, thể hiện những cây anh đào nở hoa trên bờ sông Kennet. Ông đã trải qua tuần trăng mật của mình trên những bờ sông Kennet, ông nói. Lily phải tới và ngắm bức tranh đó, ông nói. Nhưng bây giờ ông quay lại, với đôi kính giương lên cùng cái nhìn thẩm định mang tính khoa học vào bức vẽ của cô. Vấn đề là một trong những mối quan hệ của các hình khối, của những điểm sáng và điểm tối, mà, nói một cách trung thực, ông chưa từng chú ý tới trước đó, ông muốn được giải thích – cô muốn nói lên điều gì vậy? Và ông chỉ tới cảnh tượng trước mặt họ. Cô nhìn. Cô không thể bày tỏ với ông điều mà cô muốn nói lên, thậm chí không thể tự mình nhìn thấy nó nếu không có một chiếc cọ trong tay. Một lần nữa, cô quay trở lại vị trí vẽ cũ với đôi mắt mờ mịt và một thái độ lơ đãng, kềm nén lại mọi ấn tượng của mình với tư cách là một người phụ nữ xuống một mức độ phổ quát hơn; một lần nữa trở nên thấp kém hơn quyền năng mà có lần cô đã nhìn thấy một cách rõ ràng và bây giờ phải mò mẫm kiếm tìm giữa những hàng giậu, những ngôi nhà, những bà mẹ và những đứa con – bức tranh của cô. Đó là vấn đề, cô nhớ lại, làm thế nào để nối kết khối hình bên tay phải với khối hình bên tay trái. Cô có thể làm điều đó bằng cách kéo dài đường nét của nhánh cây, hoặc phá vỡ khoảng trống cận cảnh bằng một đối tượng (có lẽ là James). Nhưng mối nguy cơ là khi làm điều đó tính thống nhất của tổng thể có thể bị phá vỡ. Cô dừng lại; cô không muốn ông phải buồn lòng; cô nhẹ nhàng tháo bức tranh khỏi giá vẽ.
Nhưng nó đã bị nhìn thấy; nó đã bị tước đoạt khỏi cô. Người đàn ông này đã chia sẻ với cô một cái gì đó cực kỳ thân thiết. Và, thầm cám ơn ông Ramsay, bà Ramsay, cùng thời khắc và nơi chốn đó, tin tưởng rằng thế giới có một quyền năng mà cô chưa từng nghĩ tới – rằng người ta có thể đi xuống cái hành lang đó, không còn đơn độc lẻ loi nữa, mà là tay trong tay với một người nào đó – cái cảm giác lạ lùng nhất và phấn khích nhất trên đời – cô cài cái then hộp đồ nghề vẽ lại, một cách chắc chắn hơn mức cần thiết, và cái vòng khía dường như bao quanh mãi mãi hộp đồ nghề vẽ, bãi cỏ, ông Bankes, và con bé Cam hoang dã tinh nghịch đang chạy vụt qua.


10

Cam lướt sát rạt qua cái giá vẽ; nó không dừng lại để chào ông Bankes và Lily Briscoe; dù ông Bankes, người hẳn rất mong muốn có một đứa con gái của chính mình, chìa bàn tay ra; nó cũng chẳng dừng lại vì cha nó, người mà nó cũng chạy lướt qua sát bên; cũng không vì mẹ nó, người gọi to “Cam! Mẹ muốn con lại đây một chút!” trong lúc nó đang chạy qua. Nó chạy vụt đi như  một con chim, một viên đạn, hay một mũi tên, bị thôi thúc bởi một khát khao nào đó, bị bắn đi bởi một ai đó, tới một phương hướng nào đó, ai là người có thể nói được điều này? Gì thế, gì thế? Bà Ramsay tự hỏi, dõi mắt nhìn theo nó. Có thể đó là một viễn tượng về một con sò, một chiếc xe cút kít, hay một vương quốc thần tiên ở phía ngoài hàng giậu; hay cũng có thể đó là niềm vui tốc độ; không ai biết cả. Nhưng khi ông Ramsay gọi lần thứ hai “Cam!” con bé dừng phắt lại, và Cam chầm chậm quay trở lại chỗ mẹ nó, tiện tay kéo theo một chiếc lá.
Nó đang mơ tới điều gì, bà Ramsay tự hỏi khi thấy nó đứng đó trầm tư với một suy nghĩ nào đó của riêng nó, khiến bà phải lặp lại thông điệp hai lần – hỏi bà Mildred xem anh Andrew, chị Doyle và anh Rayley có quay về hay chưa? Những lời của bà dường như bị buông rơi xuống một cái giếng, nơi mà, nếu nước trong, chúng cũng bị bóp méo một cách khác thường đến nỗi ngay cả khi chúng đã chìm xuống, người ta vẫn nhìn thấy chúng co giãn vặn vẹo để giúp trời đất biết cái khuôn mẫu nào trên nền tâm trí của đứa trẻ. Bé Cam sẽ trao cho người đầu bếp thông điệp gì? Bà Ramsay tự hỏi. Và thật sự chỉ bằng cách kiên nhẫn chờ đợi rồi nghe thấy rằng có một bà cụ trong bếp với đôi má rất đỏ đang uống canh từ một cái tô, cuối cùng bà Ramsay mới nghĩ ra rằng theo bản năng, con bé đã học thuộc như vẹt một cách hoàn toàn chính xác những lời của Mildred và giờ đây, nếu người ta chờ đợi, nó sẽ lặp lại chúng bằng một giọng nói ê a vô vị. Vừa đứng bằng một chân, chuyển từ chân này sang chân khác, Cam vừa lặp lại những lời đó, “Không, họ chưa về, và con đã bảo Ellen dẹp trà đi.”
Vậy là Minta Doyle và Paul Rayley chưa về tới. Việc đó chỉ có một ý nghĩa duy nhất, bà Ramsay nghĩ. Con bé phải chấp nhận anh ta, hoặc phải từ chối anh ta. Việc đi ra ngoài tản bộ sau bữa trưa, dù có thằng Andrew đi cùng họ, có thể mang ý nghĩa gì? Ngoại trừ rằng con bé đã quyết định, một cách đúng đắn, bà Ramsay nghĩ (và bà rất, rất quý mến Minta), chấp nhận anh chàng dễ thương đó, dù anh ta có thể không lỗi lạc; bà nghĩ tiếp, nhận ra rằng James đang kéo áo bà, muốn bà tiếp tục đọc lớn câu chuyện Vợ chồng người ngư phủ, trong thâm tâm mình, bà thích những kẻ khờ dại hơn nhiều so với những gã đàn ông thông minh viết những bản luận văn; chẳng hạn như Charles Tansley. Dù sao đi nữa, cho tới lúc này chuyện đó phải xảy ra, theo cách này hay cách khác.
Nhưng bà đọc, “Sáng hôm sau, người vợ thức dậy trước, và trời vừa mới rạng đông, từ giường mình bà ta nhìn thấy vùng quê xinh đẹp trải ra trước mắt. Chồng bà ta vẫn còn nằm duỗi người…”
Nhưng giờ đây làm thế nào Minta có thể nói rằng nó sẽ không chấp nhận anh ta? Không, nếu nó đã đồng ý dành trọn những buổi chiều để thơ thẩn khắp vùng một mình – vì Andrew sẽ bỏ đi, đuổi theo những con cua của nó – nhưng có lẽ Nancy đi cùng với chúng. Bà cố nhớ lại cảnh tượng chúng đứng ở cửa phòng khách sau bữa ăn trưa. Chúng đứng đó, nhìn lên bầu trời, tự hỏi về thời tiết, và bà đã nói, phần để giúp chúng che giấu sự thẹn thùng, phần để khuyến khích chúng đi dạo (vì bà rất thông cảm cho Paul), “Chả có đám mây nào trong vòng vài dặm,” nói tới đây bà có thể cảm thấy anh chàng Tansley bé nhỏ, người đã đi theo họ ra ngoài, đang cười khẩy. Nhưng bà làm thế là có dụng ý. Bà không thể biết chắc Nancy có ở đó hay không, bà nhìn từ người này sang người kia với đôi mắt của tâm hồn.
Bà đọc tiếp: “Chà, mình à,” người đàn ông nói, “tại sao chúng ta phải làm vua? Tôi không muốn làm vua.” “Tốt,” người vợ nói, “nếu ông không làm vua thì tôi sẽ làm; hãy đi tới chỗ con Cá bơn, vì tôi sẽ làm vua.”
“Con vào nhà trong hay ra ngoài chơi đi Cam,” bà nói, biết rằng Cam chỉ bị thu hút bởi từ “cá bơn” và chỉ trong khoảnh khắc nó sẽ trở nên bồn chồn và sẽ đánh nhau với James như thường lệ. Cam vọt ra ngoài. Bà Ramsay tiếp tục đọc, nhẹ nhõm, vì bà và James có cùng sở thích và thấy dễ chịu khi ở bên nhau.
“Khi ông ta tới biển, trời hoàn toàn tối mịt, mặt nước cuộn trào từ bên dưới, và có mùi hôi thối. Ông ta bước tới cạnh nó và nói,
‘Cá bơn, cá bơn trong biển cả,
Cầu xin mi hãy tới bên ta;
Vì bà Ilsabil vợ tốt của ta,          
Muốn những thứ ta không hề muốn.’”
“Được, vậy bà ta muốn gì?” Cá bơn nói. Lúc này họ đang ở đâu? bà Ramsay tự hỏi, vừa đọc vừa suy nghĩ, trong cùng một lúc, một cách khá dễ dàng; vì câu chuyện về hai vợ chồng người ngư phủ cũng giống như tiếng đàn bass đệm cho một âm điệu mà thỉnh thoảng đột nhiên dâng cao lên thành giai điệu nhạc. Và khi nào thì bà sẽ được kể lại? Nếu không có gì xảy ra, bà sẽ phải nói chuyện một cách nghiêm túc với Minta. Vì con bé ấy không thể đi thơ thẩn khắp vùng quê, ngay cả khi có Nancy đi cùng chúng (bà cố thêm lần nữa, một cách không thành công, để hình dung chuyến trở về dọc theo con đường mòn của chúng, và để đếm chúng). Bà có trách nhiệm với cha mẹ của Minta – Cú Mèo và Que Cời Lò. Những biệt danh mà bà đặt cho họ hiện lên trong tâm trí bà khi bà đọc. Cú Mèo và Que Cời Lò – phải, họ sẽ phiền lòng nếu nghe thấy – và chắc chắn là họ sẽ nghe thấy – rằng Minta, đang sống với gia đình Ramsay, đã bị nhìn thấy vân vân, vân vân, vân vân. “Ông ta mang một bộ tóc giả trong Hạ viện còn bà ta thì khéo léo hỗ trợ cho ông ta từ trên đầu cầu thang,” bà lặp lại, quét họ ra khỏi tâm trí mình bằng một cụm từ mà, khi quay về từ một bữa tiệc, bà đã nói để giúp vui cho chồng mình. Trời ơi, Trời ơi, bà Ramsay tự nhủ, làm thế nào mà họ sinh ra cô con gái vô lý này? Cái con bé Minta nghịch ngợm như con trai này, luôn mang một chiếc vớ thủng lỗ? Làm thế nào con bé tồn tại được trong bầu không khí phô trương đó, nơi mà người hầu gái luôn luôn cầm cái đồ hốt rác để gom cát mà con vẹt đã vung vẩy khắp nhà, và cuộc chuyện trò cà riềng cà tỏi hầu như chỉ nói về những thành tích – thú vị, có lẽ thế, nhưng nói cho cùng thì quá hạn chế của con chim đó? Lẽ tự nhiên, người ta đã mời bà ăn trưa, uống trà, ăn tối, cuối cùng là ở với họ tại Finlay, mà kết cục là một vụ xích mích với Cú Mèo, mẹ của con bé, và nhiều cuộc viếng thăm hơn, nhiều cuộc cà riềng cà tỏi hơn, nhiều cát hơn, và thật sự vào cuối bữa tiệc, bà đã kể nhiều chuyện láo toét về những con vẹt đến mức đủ để sống cả một đời với chúng (bà đã nói thế với chồng bà đêm đó, khi trở về từ bữa tiệc). Tuy nhiên, Minta đã đến… Phải, con bé đã đến, bà Ramsay nghĩ, ngờ rằng có một cái gai nào đó trong mớ bòng bong rối rắm của ý nghĩ này; và hóa ra nó là đây: một người phụ nữ đã có lần cáo buộc bà về tội “cướp khỏi bà ta những tình cảm của con gái bà ta”; một điều gì đó mà bà Doyle đã nói khiến bà nhớ lại lời buộc tội đó. Muốn thống trị, muốn can thiệp, buộc mọi người làm theo điều mà bà muốn – đó là lời buộc tội chống lại bà, và bà nghĩ nó quá bất công. Làm sao bà có thể không tỏ ra “như thế”? Không ai có thể buộc tội bà về việc gây đau đớn để tạo ấn tượng. Bà vẫn thường xấu hổ về sự xoàng xỉnh của chính mình. Bà không độc đoán, cũng chẳng chuyên chế chi hết cả. Về những thứ bệnh viện và cống rãnh và sản xuất bơ sữa thì có. Về những chuyện như thế bà thật sự cảm thấy đam mê, và ắt hẳn sẽ, nếu có cơ hội, tóm lấy gáy của mọi người và buộc họ phải nhìn xem. Trên khắp hòn đảo không có một bệnh viện nào hết. Đó là một sự ô nhục. Sữa được giao ở cửa nhà bạn tại London chắc chắn là nâu xỉn vì bụi bẩn. Hẳn nó phải được sản xuất một cách bất hợp pháp. Một trại sản xuất bơ sữa hiện đại và một bệnh viện ở đây – đó là hai việc mà bà muốn tự mình thực hiện. Nhưng bằng cách nào? Với tất cả lũ con nheo nhóc này ư? Khi chúng lớn hơn, có lẽ bà sẽ có thời gian; khi tất cả bọn chúng đã tới tuổi đến trường. 
Ồ, nhưng bà không bao giờ muốn James lớn lên thêm một ngày nào! Cả Cam cũng thế. Bà muốn giữ hai đứa bé này mãi mãi như hiện tại, những con quỷ nghịch ngợm, những thiên sứ của niềm vui, để không bao giờ nhìn thấy chúng lớn lên thành những con quái vật chân dài. Không gì có thể bù đắp cho sự tổn thất. Ngay bây giờ, khi bà đang đọc cho James nghe, “và có nhiều người lính mang theo trống định âm và kèn trumpet,” và đôi mắt nó thẫm lại, tại sao chúng lại phải lớn lên và đánh mất tất cả những thứ đó? Nó là đứa bé có khả năng thiên phú nhất, nhạy cảm nhất trong lũ con của bà. Nhưng tất cả, bà nghĩ, đều tràn đầy hứa hẹn. Prue, một thiên thần hoàn hảo đối với những người khác, và đôi khi, nhất là vào ban đêm, bà phải nín thở trong khoảnh khắc vì vẻ đẹp của nó. Andrew – ngay cả chồng bà cũng phải thừa nhận rằng tài năng về toán học của nó rất đặc biệt. Và Nancy và Roger, cả hai đứa chúng nó đều là những tạo vật hoang dã, rong chơi tha thẩn khắp vùng suốt cả ngày. Còn về phần Rose, miệng nó to quá, nhưng đôi bàn tay nó thật diệu kỳ. [6]Rose may những chiếc váy; làm ra mọi thứ; chẳng hạn những chiếc bàn với cách bày trí đẹp nhất, những lọ hoa, bất cứ thứ gì. Bà không thích việc Jasper bắn chim; nhưng đây chỉ là một giai đoạn; tất cả chúng nó đều trải qua những giai đoạn. Tại sao, bà hỏi, ép nhẹ cằm mình vào đầu James, chúng lại phải lớn thật nhanh? Tại sao chúng lại phải tới trường? Bà muốn mình luôn có một em bé. Bà hạnh phúc nhất khi bế một em bé trong tay. Vậy thì mọi người cứ việc nói rằng bà là kẻ chuyên chế, độc đoán, hách dịch, tùy ý họ; bà chả quan tâm. Và, đưa đôi môi hôn nhẹ vào mái tóc James, bà nghĩ, nó sẽ không bao giờ hạnh phúc như thế này lần nữa, nhưng bà tự ngăn mình lại, nhớ rằng nếu bà nói thế thì chồng bà sẽ tức giận ra sao. Tuy nhiên, đúng là như vậy. Bây giờ chúng đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Một bộ tách uống trà giá mười xu sẽ làm cho Cam vui sướng suốt nhiều ngày. Bà nghe thấy tiếng chúng dậm chân và nói bi bô khi chúng thức giấc ở tầng trên. Chúng chạy ào xuống dọc hành lang. Rồi cánh cửa mở bung ra và chúng ùa vào, tươi tắn như những đóa hoa hồng, nhìn chằm chặp, náo nức, như thể việc đi vào phòng ăn sau bữa điểm tâm, mà chúng thực hiện hàng ngày trong đời chúng, là một sự kiện cực kỳ đối với chúng, vân vân, và sự kiện này nối tiếp sự kiện kia, suốt cả ngày dài, cho tới khi bà lên gác để chúc chúng ngủ ngon, và thấy chúng rúc vào những chiếc giường như những con chim nằm giữa những khóm lá anh đào và mâm xôi, vẫn còn bịa ra những câu chuyện vu vơ nào đó – một điều gì đó mà chúng đã nghe, một thứ gì đó mà chúng đã nhặt được trong vườn. Cả bọn đều có những kho báu bé nhỏ của chúng… Thế là bà đi xuống và nói với chồng mình, Tại sao chúng lại phải lớn lên và đánh mất đi tất cả những điều này? Chúng sẽ chẳng bao giờ có lại hạnh phúc như thế nữa. Và ông ấy nổi giận. Vì sao cứ nhìn đời một cách u ám như thế chứ? ông ấy nói. Điều đó không hợp lý. Vì điều đó kỳ quặc; Và bà tin đúng là như thế; rằng trên tổng thể, với mọi nỗi u sầu tuyệt vọng của mình ông lại hạnh phúc hơn, nhiều hy vọng hơn bà. Ít bị phơi bày trước những lo lắng của nhân loại hơn – có lẽ là thế. Ông ấy luôn có công việc để lại đắm chìm vào đó. Cũng không phải bà “bi quan” như ông buộc tội. Chỉ là bà nghĩ tới cuộc đời – và một dải thời gian nhỏ bé tự hiển hiện lên trước mắt bà – và cái tuổi năm mươi của bà. Nó ở đó trước mắt bà – cuộc đời. Cuộc đời, bà nghĩ – nhưng bà không kết thúc ý nghĩ của mình. Bà nhìn vào cuộc đời, vì bà có một cảm giác rõ ràng về nó ở đó, một cái gì đó có thật, một cái gì đó riêng tư, mà bà không chia sẻ được cả với chồng lẫn mấy đứa con của mình. Có một kiểu chuyển giao nào đó diễn ra giữa hai bên, trong đó bà là một phía và cuộc đời ở phía kia, và bà luôn cố nhận lấy phần tốt hơn của nó, như nó là của bà; và đôi khi hai bên hòa đàm (khi bà ngồi một mình); bà nhớ, đã có nhiều xen hòa giải tuyệt vời; nhưng đa phần, thật lạ lùng, bà phải thừa nhận rằng bà cảm thấy cái mà bà gọi là cuộc đời này thật kinh khủng, đầy thù địch, và sẽ nhanh chóng vồ lấy bạn nếu bạn cho nó một cơ hội. Có những vấn đề muôn thuở: nổi thống khổ; chết chóc; nghèo túng. Thậm chí ngay ở đây cũng luôn luôn có một người phụ nữ chết vì bệnh ung thư. Thế nhưng bà đã bảo với tất cả những đứa con của mình, Các con phải vượt qua tất cả những thứ này. Bà thường xuyên nói điều này với tám con người (và hóa đơn cho cái nhà kính sẽ là năm mươi bảng). Vì lý do đó, biết phía trước họ là gì – tình yêu và tham vọng và đau khổ một mình ở những nơi đáng sợ – bà thường có cảm giác, Vì sao chúng phải lớn lên và đánh mất tất cả những điều này? Và rồi bà tự nhủ với mình, vung thanh gươm của bà ra trước cuộc đời, Vô lý. Chúng sẽ hoàn toàn hạnh phúc. Và bà ngồi đây, bà suy ngẫm, lại cảm thấy cuộc đời khá là độc ác, khiến cho Minta kết hôn với Paul Rayley; bởi lẽ bất chấp bà có thể cảm thấy thế nào về quan hệ hôn nhân của chính mình, bà đã có những trải nghiệm không nhất thiết phải xảy ra với một ai khác (bà không kể tên chúng ra với chính mình); bà bị thôi thúc, quá nhanh chóng, bà biết thế, gần như thể nó cũng là một lối thoát cho chính bản thân bà, khi nói rằng mọi người phải kết hôn; mọi người phải có con cái.
Bà có sai lầm về việc này không, bà tự hỏi, ôn lại cách hành xử của mình trong một hai tuần qua, và tự hỏi thật ra bà có đặt bất kỳ áp lực nào lên Minta hay không khi buộc con bé phải quyết định, nó chỉ mới hai mươi bốn tuổi. Bà thấy khó chịu. Không phải bà đã từng cười chế giễu chuyện đó hay sao? Có phải bà lại quên rằng bà có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với mọi người? Ồ, hôn nhân cần mọi kiểu phẩm chất (hóa đơn cho căn nhà kính sẽ là năm mươi bảng); trong đó có một thứ bà không cần phải gọi tên nó ra – có tính chất cốt yếu; thứ mà bà có với chồng mình. Họ có thứ đó hay không?
“Rồi ông ta mặc quần vào và bỏ chạy như một người điên,” bà đọc. “Nhưng ngoài biển một cơn bão lớn đang nổi lên và thổi mạnh đến nỗi ông ta hầu như không thể kềm được đôi chân; những ngôi nhà, cây cối lung lay chao đảo, những ngọn núi rung rinh, những tảng đá rơi xuống biển, bầu trời đen sầm thăm thẳm, và sấm sét đùng đùng nổ, rồi biển ập vào với những ngọn sóng cao như những tháp nhà thờ và những ngọn núi, và bọt tung trắng xóa khắp các đầu ngọn sóng.” 
Bà lật sang trang; chỉ còn vài dòng nữa, vì thế bà sẽ kết thúc câu chuyện, dù đã quá giờ lên giường ngủ. Đã khá muộn rồi. Ánh sáng trong vườn nói với bà điều đó; màu trắng của những bông hoa cùng một thứ gì đó xam xám trong đám lá kết hợp với nhau, khuấy động trong bà một cảm giác bồn chồn lo lắng. Thoạt tiên bà không thể nghĩ ra đó là do cái gì. Rồi bà chợt nhớ ra; Paul, Minta và Andrew chưa trở về. Bà triệu tập nhóm trẻ còn lại tới trước mặt mình, trên sân hiên ngay trước cửa phòng khách, và đứng ngẩng nhìn lên bầu trời. Andrew có mang theo tấm lưới và cái giỏ. Nghĩa là nó sẽ bắt cua và các thứ. Nghĩa là nó sẽ trèo ra một tảng đá; nó sẽ bị đứt chân đứt tay. Hoặc trở về một mình trên một trong những con đường mòn bên trên vách đá, một trong số chúng có thể khá trơn trợt. Nó sẽ té lăn quay và bị va đập. Trời đã sụp tối hoàn toàn.
Nhưng bà không để cho giọng nói của mình thay đổi chút nào khi kết thúc câu chuyện, và bổ sung thêm những lời cuối khi gấp cuốn sách lại, như thể bà đã tự nghĩ ra chúng, mắt nhìn vào mắt của James: “Và họ sống ở đó cho tới tận bây giờ.”
“Thế là hết chuyện,” bà nói, và nhìn thấy trong mắt thằng bé, khi sự thú vị của câu chuyện đã tan đi, có một thứ gì đó thay chỗ cho điều đó; một thứ gì đó đầy thắc mắc, nhợt nhạt, như ánh phản chiếu của một ngọn đèn, và ngay lập tức khiến cho ánh mắt của James trở nên đăm chiêu và khác lạ. Bà xoay người ngó qua cái vịnh, và ở đó, chắc như ăn bắp, ánh sáng của ngọn hải đăng đang liên tục quét qua những lượn sóng, đầu tiên là hai luồng ngắn rồi tới một luồng dài. Nó đã được thắp lên.
Chỉ giây lát nữa nó sẽ hỏi bà, “Chúng ta sẽ ra ngọn hải đăng chứ mẹ?” Và bà sẽ phải trả lời, “Không, ngày mai thì không; cha con bảo là không.” Thật may mắn, Mildred đã tới đón chúng, và sự ồn ào làm chúng xao lãng. Nhưng nó vẫn ngoái nhìn lại khi Milfred bế nó đi, và bà chắc chắn rằng nó đang thầm nghĩ, ngày mai chúng ta sẽ không ra ngọn hải đăng; và bà nghĩ, suốt đời mình, nó sẽ ghi nhớ tất cả những điều này.    


11

Không, bà vừa nghĩ, vừa gom lại những bức hình mà nó đã cắt ra – một cái tủ lạnh, một cái máy cắt cỏ, một quý ông mặc dạ phục – trẻ con không bao giờ quên. Vì lý do này, những gì người ta đã nói, và những gì người ta đã làm, là rất quan trọng, và thật là nhẹ nhõm khi chúng đã đi ngủ. Bởi bây giờ bà không cần nghĩ tới bất kỳ ai cả. Bà có thể là chính mình, được ở một mình. Và điều mà bà thường cảm thấy cần thiết lúc này là suy nghĩ; vâng, thậm chí không chỉ suy nghĩ. Mà là im lặng; là được ở một mình. Mọi bản thể và mọi hành vi mở rộng, lấp lánh, lên tiếng, tan biến; và người ta co lại, với một cảm giác trang trọng, để là chính bản thân, một cái lõi hình nêm của bóng tối, một cái gì đó vô hình đối với những người khác. Dù bà vẫn tiếp tục đan và ngồi thẳng, bà cảm nhận về bản thân mình như thế; và cái bản ngã này sau khi đã cởi bỏ những thứ gắn liền với nó trở nên tự do cho những cuộc phiêu lưu kỳ lạ nhất. Khi sự sống chìm xuống trong khoảnh khắc, phạm vi kinh nghiệm dường như trở nên vô hạn. Và cái cảm giác về những tiềm năng vô hạn định này luôn luôn có ở mọi người, bà cho là vậy; người nọ kế tiếp người kia, bà, Lily, Augustus Carmichael, phải cảm thấy, ngoại diện của chúng ta, những điều mà qua đó bạn biết về chúng tôi, chỉ đơn giản giống trẻ con. Ở bên dưới, nó là bóng tối tuyệt đối, là sự lan trải hoàn toàn, là chiều sâu thăm thẳm khôn dò; nhưng thỉnh thoảng chúng tôi trồi lên bề mặt và đó chính là thứ mà bạn nhìn thấy ở chúng tôi. Với bà, chân trời của bà dường như vô hạn. Có tất cả những nơi chốn bà chưa từng nhìn thấy, những thảo nguyên Ấn Độ; bà cảm thấy mình đang nép mình cạnh bức màn cửa bằng da dày của một ngôi nhà thờ ở Rome. Cái lõi của bóng tối này có thể đi khắp mọi nơi, vì không ai nhìn thấy nó. Họ không thể ngăn nó lại, bà nghĩ, hả hê. Có sự tự do, có sự thanh bình, và tuyệt vời nhất, có sự tập trung, một trạng thái nghỉ ngơi trên một cái nền bền vững. Không phải giống như người ta cảm thấy bản thân mình ngơi nghỉ, theo kinh nghiệm của bà, (tới đây bà khéo léo hoàn tất một động tác nào đó trong công việc đan tất) mà giống như một cái nêm của bóng tối. Khi mất đi cá tính, người ta cũng mất cả cảm giác khó chịu, sự vội vã, sự náo nức; và từ đôi môi của bà luôn thốt ra một tiếng kêu chiến thắng trước cuộc đời khi mọi sự vật đến bên nhau trong sự thanh bình này, sự nghỉ ngơi này, sự miên viễn này; và dừng ý nghĩ ở đó, bà nhìn ra, bắt gặp luồng ánh sáng của ngọn hải đăng, luồng ánh sáng dài đều đặn, luồng ánh sáng cuối trong ba luồng ánh sáng, nó là luồng ánh sáng của bà, vì khi quan sát chúng trong tâm trạng này, luôn luôn vào chính thời khắc này, người ta không thể không gắn kết bản thân mình với một sự vật đặc biệt trong số những sự vật mà người ta nhìn thấy; và sự vật này, luồng ánh sáng dài đều đều này, là luồng ánh sáng của bà. Bà thường nhận ra mình đang ngồi và nhìn, ngồi và nhìn, với công việc trên tay cho tới khi bà trở thành thứ mà bà nhìn – chẳng hạn như ánh sáng đó. Và nó sẽ nâng lên trên nó một cụm từ bé nhỏ này hay khác vốn đang nằm trong tâm trí của bà như câu – “Trẻ con không quên, trẻ con không quên” – mà bà thường lặp lại và bắt đầu bổ sung thêm cho nó, Nó sẽ kết thúc, nó sẽ kết thúc, bà nói. Nó sẽ tới, nó sẽ tới, đột nhiên bà nói thêm, Chúng ta ở trong tay của Chúa. 
Nhưng ngay sau đó bà thấy bực mình vì đã nói thế. Ai đã nói câu đó vậy? Không phải là bà; bà đã bị cài bẫy để nói một điều mà bà không định nói. Bà nhìn lên và bắt gặp luồng ánh sáng thứ ba và đối với bà việc này cũng tựa như mắt bà chạm phải chính mắt bà, bà tìm kiếm như khi ở một mình bà có thể tìm kiếm trong đầu óc và trái tim mình, gạn lọc từ bản thể sự dối trá đó, bất kỳ sự dối trá nào. Bà tự ngợi ca mình trong việc ngợi ca ánh sáng đó, không chút tự cao tự đại, vì bà nghiêm khắc, bà đang tìm kiếm, bà đẹp đẽ như ánh sáng đó. Thật kỳ lạ làm sao, bà nghĩ, nếu người ta ở một mình, người ta thường nghiêng về các sự vật vô tri; những cây cối, những con suối, những bông hoa; cảm thấy chúng thể hiện người ta; cảm thấy chúng trở thành người ta; cảm thấy chúng biết người ta, trong một ý nghĩa nào đó chính là người ta; cảm thấy một nỗi dịu êm phi lý như thế về chính bản thân (bà nhìn luồng ánh sáng dài đều đều đó). Bà nhìn, nhìn mãi, đôi kim đan ngưng hoạt động, và một làn sương mù, một chiếc cầu để gặp gỡ người tình nhân yêu dấu chợt nổi lên, cuộn lên phía trên nền tâm trí, nổi lên từ chiếc hồ bản thể của bà.
Điều gì khiến cho bà nói rằng: “Chúng ta ở trong tay của Chúa?” bà tự hỏi. Sự giả dối luồn vào giữa những sự thật khuấy động bà, khiến bà phiền muộn. Bà lại quay về với công việc đan vớ. Đức Chúa nào đó làm thế nào để tạo ra thế giới này? bà hỏi. Trong tâm trí, bà luôn bám chặt thực tế rằng không hề có lý trí, trật tự hay công chính: mà là khổ đau, chết chóc và nghèo túng. Cũng chẳng có sự dối trá nào đê tiện đến mức không thể thực hiện được đối với thế gian; bà biết điều đó. Hạnh phúc không tồn tại; bà biết điều đó. Bà đan với sự điềm tĩnh vững vàng, đôi môi hơi mím lại và, không chút ý thức nào về điều đó, những đường nét trên khuôn mặt của bà cứng lại, bình thản, theo thói quen của tính tình nghiêm nghị, đến nỗi khi chồng bà đi ngang qua, dù đang cười khúc khích với ý nghĩ rằng triết gia Hume, ngày càng trở nên béo ị, đã sa vào một bãi lầy, vẫn không thể không nhận thấy, khi ông đi ngang qua, sự nghiêm khắc nằm ở trung tâm vẻ đẹp của bà. Nó làm cho ông buồn, và vẻ xa vắng của bà làm cho ông đau nhói, và ông cảm thấy, khi đi ngang qua, rằng ông không thể bảo vệ bà, và, khi đi tới hàng giậu, ông thấy buồn rầu. Ông chẳng thể làm gì để giúp bà. Ông phải đứng sang bên và ngắm nhìn bà. Thật ra, có một sự thật quỷ tha ma bắt là ông đã làm cho mọi sự trở nên tệ hại hơn đối với bà. Ông tức tối – ông quá nhạy cảm. Ông đã đánh mất bình tĩnh về việc ngọn hải đăng. Ông nhìn vào hàng giậu, vào sự phức tạp của nó, bóng tối của nó.
Luôn luôn, bà Ramsay cảm thấy, người ta miễn cưỡng giúp chính mình thoát khỏi sự lẻ loi bằng cách bám vào một thứ nhỏ nhoi tầm thường nào đó, một âm thanh nào đó, một cảnh tượng nào đó. Bà lắng nghe, nhưng mọi thứ đều rất lặng lẽ; trận đấu crikê đã chấm dứt; lũ trẻ đang tắm; chỉ còn âm thanh của biển. Bà ngưng đan; bà cầm lủng lẳng chiếc vớ dài màu nâu đỏ trong giây lát. Bà lại nhìn thấy luồng ánh sáng. Với một sự mỉa mai nào đó trong sự chất vấn chính bản thân, vì khi người ta thức giấc, những mối quan hệ của người ta thay đổi, bà nhìn vào luồng ánh sáng đều đều, luồng ánh sáng nhẫn tâm, luồng ánh sáng không thương xót, giống bà rất nhiều, thế nhưng cũng giống bà rất ít, cái bắt buộc bà phải phục tùng (bà thức giấc trong đêm và thấy nó tuôn đổ xuống giường họ, quét qua nền nhà), nhưng với tất cả những thứ đó, bà nghĩ, quan sát nó với sự mê hoặc như bị thôi miên, như thể với những ngón tay lóng lánh ánh bạc nó đang vuốt ve một mạch máu phong kín nào đó trong óc não bà mà sự bùng nổ của nó sẽ khiến lòng bà tràn ngập nỗi hân hoan mà bà đã từng biết như là hạnh phúc, một niềm hạnh phúc tinh tế, một niềm hạnh phúc căng tràn, và nó nhuộm bạc những lượn sóng hung hãn khiến chúng sáng lạn hơn, khi ánh ngày đã nhạt nhòa, còn màu xanh trời thì rút xa khỏi biển và cuộn tròn trong những lượn sóng màu chanh thuần khiết đang cuộn lên, phình ra và đổ ập xuống bờ biển và trạng thái ngất ngây bùng nổ trong mắt bà, và những lượn sóng của niềm vui thuần khiết tràn ngập tâm trí bà và bà nghĩ, Thế là đủ! Thế là đủ!
Ông quay lại và nhìn thấy bà. Ôi chao! Bà thật xinh đẹp, bây giờ bà xinh đẹp hơn bao giờ hết, ông nghĩ. Nhưng ông không thể quấy rầy bà. Ông mong mỏi một cách khẩn thiết được nói với bà ngay bây giờ, khi James đã đi và cuối cùng bà còn lại có một mình. Nhưng ông kiên quyết, không; ông sẽ không quấy rầy bà. Bây giờ bà quá cách biệt với ông trong vẻ đẹp của bà, trong nỗi buồn của bà. Ông sẽ để cho bà yên, và ông đi ngang qua bà mà không nói lời nào, dù việc bà có vẻ xa cách như thế và việc ông không thể tới bên bà, không thể làm gì để giúp bà, khiến ông bị tổn thương. Một lần nữa, hẳn là ông sẽ đi ngang qua bà mà không nói lời nào nếu như bà không, vào chính ngay giây phút ấy, trao cho ông với ý chí tự do của mình thứ mà bà biết ông sẽ không bao giờ đòi hỏi, và gọi ông lại, gỡ chiếc khăn choàng màu xanh lá ra khỏi khung bức tranh và bước tới bên ông. Vì ông mong muốn, bà biết, được bảo vệ bà.


12

Bà cuộn chiếc khăn choàng quanh bờ vai mình. Bà khoác tay ông. Vẻ đẹp của anh ta thật tuyệt vời, bà bảo, bắt đầu nói ngay về người làm vườn Kennedy, rằng anh ta đẹp trai đến nỗi bà không thể sa thải anh ta. Có một cái thang gác dựa vào căn nhà kính và những đống vữa nhỏ rải rác quanh đó, vì họ đang bắt đầu sửa chữa căn nhà kính. Phải, nhưng trong khi lững thững bước cạnh chồng mình, bà cảm thấy nỗi lo âu cụ thể đó đã được đặt ra. Câu nói đã nằm trên đầu lưỡi của bà, trong khi họ đang đi, “Nó sẽ tốn năm mươi bảng”, nhưng thay vào đó, vì tim bà không nghĩ tới tiền bạc, bà lại nói về việc Jasper bắn chim, và ngay lập tức ông nói, để an ủi bà, rằng đó là chuyện tự nhiên ở một đứa bé trai, và ông tin rằng chẳng lâu la gì nó sẽ tìm ra những cách tiêu khiển tốt hơn. Chồng bà quá hiểu biết, quá công bằng. Thế là bà nói, “Phải, tất cả những đứa trẻ đều trải qua những giai đoạn,” và bắt đầu săm soi những đóa hoa thược dược trong luống hoa lớn, tự hỏi những bông hoa năm sau sẽ ra sao, và ông có nghe cái biệt danh mà bọn trẻ đặt cho Charles Tansley hay không, bà hỏi. Gã vô thần, chúng gọi anh ta như thế, gã vô thần bé nhỏ. “Anh ta không phải là mẫu người thanh nhã,” ông Ramsay nói. “Còn lâu mới được thế,” bà Ramsay nói.
Bà cho rằng tốt nhất cứ để cho anh ta tự xoay xở lấy, bà Ramsay nói, tự hỏi việc gửi những củ hành xuống có tác dụng gì không; họ có trồng chúng không? “Ồ, anh ta phải viết những luận án của mình,” ông Ramsay nói. Bà biết tất cả về điều đó, ông Ramsay nói. Anh ta không nói về điều gì khác. Tất cả đều chỉ nói về ảnh hưởng của ai đó lên một điều gì đó. “Chà, đó là tất cả những gì anh ta phải dựa vào, bà Ramsay nói. “Cầu Trời anh ta sẽ không phải lòng con bé Prue,” bà Ramsay nói. Ông sẽ tước quyền thừa kế của nó nếu nó cưới anh ta, ông Ramsay nói. Ông không nhìn những bông hoa bà vợ đang săm soi mà lại nhìn vào một điểm nào đó bên trên chúng chừng hai tấc. Anh ta chẳng có gì nguy hiểm, ông nói thêm, và sắp sửa nói rằng dù sao thì anh ta là chàng trai trẻ duy nhất ở nước Anh ngưỡng mộ ông, nhưng ông nuốt câu này xuống cổ. Ông sẽ không làm bận lòng bà thêm nữa về những cuốn sách của mình. Những bông hoa này có vẻ tuyệt đấy, ông Ramsay nói, hạ thấp ánh mắt và nhận thấy một thứ gì đó đo đỏ, một thứ gì đó nâu nâu. Vâng, nhưng bà đã đặt những bông hoa này vào tay mình, bà Ramsay nói. Vấn đề là, điều gì sẽ xảy ra nếu bà gửi những củ hành xuống; Kenedy có trồng chúng không? Cái bệnh lười của anh ta thật khó mà chữa khỏi; bà nói thêm, đi tiếp. Nếu bà đứng giám sát anh ta suốt ngày với một cái mai trong tay bà thì đôi khi anh ta cũng cố gắng làm lụng đôi chút. Họ lững thững đi tiếp tới chỗ những khóm hoa loa kèn đuốc. “Bà đang dạy cho mấy đứa con gái phóng đại mọi chuyện lên,” ông Ramsay nói, quở trách bà. Cô Camilla của bà còn tệ hơn cả bà nữa, bà Ramsay nhận xét. “Tôi chưa hề thấy người nào xem cô Camilla của bà là một kiểu mẫu về đức hạnh,” ông Ramsay nói. “Cô ấy là người phụ nữ đẹp nhất mà tôi từng thấy,” bà Ramsay nói. “Có người khác hơn đấy,” ông Ramsay nói. Prue sẽ đẹp hơn cô ấy nhiều, bà Ramsay nói. Ông chẳng thấy dấu hiệu nào về điều đó cả, ông Ramsay nói. “Ồ, vậy tối nay ông cứ nhìn xem,” bà Ramsay nói. Họ dừng lại. Ông ước rằng Andrew sẽ làm việc chăm chỉ hơn. Nếu không, nó sẽ đánh mất mọi cơ hội để nhận được một học bổng. “Ồ, những học bổng!” bà nói. Ông Ramsay nghĩ bà thật ngốc khi nói như thế về một việc nghiêm túc như một học bổng. Ông sẽ rất tự hào về Andrew nếu nó nhận được một học bổng, ông nói. Bà cũng sẽ tự hào không kém nếu nó không nhận được học bổng nào cả, bà trả lời. Họ luôn bất đồng về việc này, nhưng điều đó không quan trọng. Bà thích ông tin vào những khoản học bổng, còn ông thích bà tự hào về James bất kể nó làm gì. Đột nhiên bà sực nhớ về những con đường mòn trên rìa các vách đá.
“Trời đã muộn, có phải không?” bà hỏi. Chúng vẫn chưa về nhà. Ông cẩu thả bật cái nắp đồng hồ. Nhưng chỉ mới quá bảy giờ. Ông để mở nắp đồng hồ một lúc, quyết định rằng ông sẽ nói với bà những gì ông đã cảm thấy ở trước hiên nhà. Để bắt đầu việc đó, thật rất vô lý khi quá lo âu căng thẳng. Andrew có thể tự chăm sóc bản thân. Thế rồi ông muốn nói với bà rằng khi ông đang đi lại trước hiên nhà – tới đây ông trở nên lúng túng, như thể ông đang xâm nhập vào sự cô độc, sự cách biệt, sự xa vắng của bà. Nhưng bà thúc giục ông. Ông muốn kể cho bà nghe chuyện gì, bà hỏi, nghĩ rằng đó là về việc đi ra ngọn hải đăng; rằng ông hối tiếc vì đã nói “Quỷ tha ma bắt bà đi”. Nhưng không. Ông không thích trông thấy bà có vẻ buồn bã như thế, ông nói. Chỉ là vì đang tập trung để gom len lại, bà phản kháng, hơi đỏ mặt đôi chút. Cả hai cảm thấy lúng lúng, như thể họ không biết nên đi tiếp hay quay trở lại. Bà đã đọc truyện cổ tích cho James nghe, bà bảo. Không, họ không thể chia sẻ điều đó; họ không thể nói điều đó.
Họ đã tới khoảng trống giữa hai khóm loa kèn đuốc, và ngọn hải đăng lại hiện ra, nhưng bà không cho phép mình nhìn nó. Giá bà biết ông đã nhìn bà, bà nghĩ, bà sẽ không cho phép mình ngồi đó suy nghĩ. Bà không thích bất cứ điều gì nhắc cho bà nhớ rằng bà đã ngồi suy nghĩ. Vì thế bà ngoảnh lại nhìn về hướng thị trấn. Những ánh đèn đang chuyển động lăn tăn như thể chúng là những giọt nước bạc được neo giữ lại trong một cơn gió. Và tất cả những nghèo nàn, tất cả những khổ đau đã quay sang đó, bà Ramsay nghĩ. Những ánh đèn của thị trấn, của hải cảng và của những con thuyền giống như giống tấm lưới ma quái trôi lờ đờ ở đó để đánh dấu một thứ gì đó đã đắm chìm. Chà, nếu ông không thể chia sẻ những suy nghĩ của bà ấy, ông Ramsay tự nhủ, ông sẽ bỏ đi và suy nghĩ về những chuyện của riêng mình. Ông muốn tiếp tục suy nghĩ, tự kể cho mình nghe câu chuyện Hume đã sa vào một bãi lầy ra sao; ông muốn cười rộ lên. Nhưng trước hết lo lắng về Andrew là một điều vô lý. Khi ở lứa tuổi của Andrew, ông thường đi bộ khắp vùng suốt ngày, chẳng có gì ngoài một cái bánh quy trong túi và chẳng có ai bận tâm về ông  hay nghĩ rằng ông đã ngã trên một vách núi. Ông nói to ý nghĩ của mình rằng ông sẽ ra ngoài tản bộ một ngày nếu thời tiết tốt. Ông thấy đã quá đủ với Bankes và  Carmichael. Ông muốn được lẻ loi chút ít. Vâng, bà nói. Việc bà không phản đối làm ông bực bội. Bà biết rằng ông sẽ không bao giờ thực hiện điều đó. Bây giờ ông đã quá già, không thể đi bộ suốt ngày với một cái bánh quy trong túi. Bà lo cho lũ trẻ chứ không lo cho ông. Cách đây nhiều năm, trước khi lấy vợ, ông nghĩ, nhìn qua cái vịnh, khi họ đang đứng đó giữa hai khóm loa kèn đuốc, ông đã từng đi bộ cả ngày. Ông đã ăn một bữa chỉ có bánh mì và bơ trong một quán ăn. Ông đã làm việc một mạch mười tiếng đồng hồ; một bà cụ cứ thỉnh thoảng lại thò đầu vào và nhìn ánh lửa. Đó là vùng quê ông thích nhất, ở phía kia; những dãy đồi đang chìm vào bóng tối đó. Người ta có thể đi suốt ngày mà không gặp bóng người nào. Hầu như chẳng có một ngôi nhà, một làng xóm lẻ loi nào trong suốt nhiều dặm. Người ta có thể lo âu về mọi thứ một mình. Có những bờ cát nhỏ chưa có ai đặt chân tới từ thuở khai thiên lập địa. Những con hải cẩu ngóc lên và nhìn bạn. Đôi khi dường như ông cảm thấy cô đơn trong ngôi nhà nhỏ ngoài kia – ông thoát khỏi suy nghĩ, thở dài. Ông không có quyền. Người cha của tám đứa con – ông tự nhắc nhở mình. Và ông sẽ là một con quái vật hay một tên vô lại nếu ước ao có một thay đổi duy nhất nào. Andrew sẽ là một người đàn ông tốt hơn ông. Prue sẽ là một cô gái xinh đẹp, mẹ nó bảo. Họ sẽ ngăn dòng nước lụt được chút nào hay chút nấy. Nhìn chung có khá nhiều việc phải làm – tám đứa con của ông. Chúng cho thấy ông đã không phiền trách cái vũ trụ bé nhỏ tội nghiệp này về một buổi tối như thế này, ông nghĩ, nhìn vào dải đất đang hao mòn dần, hòn đảo nhỏ dường như bé nhỏ một cách thảm hại, đã bị biển cả nuốt đi phân nửa.
“Cái chốn bé nhỏ tội nghiệp,” ông lẩm bẩm với một tiếng thở dài. 
Bà nghe thấy ông. Ông đã nói những điều buồn thảm nhất, nhưng bà nhận thấy dường như khi đã trực tiếp nói ra ông sẽ vui vẻ hơn thường lệ. Tất cả những trò đặt thành ngữ này là một trò chơi, bà nghĩ, vì giá như bà chỉ cần nói phân nửa những gì ông nói, hẳn bà phải vỡ óc ra ngay.
Nó làm bà bực mình, cái trò đặt thành ngữ này, và bà nói với ông, một cách giản dị, rằng đây là một buổi tối hoàn toàn đáng yêu. Và ông đang than thở điều gì, bà hỏi, nửa cười cợt nửa phàn nàn, vì bà đoán được ông đang nghĩ gì – lẽ ra ông đã viết được những cuốn sách hay hơn nếu không lấy vợ.
Ông không than phiền, ông bảo. Bà biết rằng ông không than phiền. Bà biết rằng ông chẳng có gì để than phiền cả. Và ông nắm chặt tay bà, nâng nó lên môi và hôn nó đắm đuối khiến mắt bà rưng rưng lệ, rồi ông nhanh chóng buông nó ra.
Họ quay trở lại và bắt đầu đi lên con đường mòn nơi những cây lá đâm chồi như những mũi giáo xanh xanh óng bạc, tay trong tay. Cánh tay ông gần giống như cánh tay của một chàng trai trẻ, bà Ramsay nghĩ, mảnh khảnh và rắn chắc, và bà nghĩ với niềm vui sướng rằng ông vẫn còn mạnh khỏe biết bao, dù đã quá sáu mươi, và kiên cường lạc quan biết bao, thật lạ lùng khi có thể chắc chắn rằng, như bản thân ông là thế, mọi điều kinh khủng dường như không làm ông thoái chí mà lại làm ông vui mừng phấn chấn. Có kỳ lạ hay không, bà ngẫm nghĩ? Thật sự, đối với bà, đôi khi dường như ông được tạo thành một cách khác biệt so với mọi người khác, sinh ra mù, điếc, đui, đối với những điều bình thường, nhưng lại có một đôi mắt như mắt chim đại bàng đối với những sự vật khác thường. Sự hiểu biết của ông thường làm cho bà kinh ngạc. Nhưng ông có chú ý tới những bông hoa không? Không. Ông có chú ý tới cảnh vật không? Không. Thậm chí ông có chú ý tới vẻ đẹp của con gái mình, hoặc có món bánh pu-đinh hay bò nướng trong dĩa của mình hay không? Ông chỉ ngồi ở bàn với họ như một người trong giấc mộng. Và bà e là ông ngày càng thâm nhiễm thói quen nói lớn tiếng hay đọc lớn những bài thơ; vì đôi khi thật khó xử –
Tốt đẹp nhất và sáng nhất lìa xa![7]
cô Giddings tội nghiệp đã giật nảy cả người khi ông hét to câu đó với cô ta. Nhưng vậy thì, bà Ramsay nghĩ, dù ngay lập tức đứng về phía ông để chống lại mọi cô Giddings ngốc nghếch trên thế giới, vậy thì, bà nghĩ, thân mật ấn nhẹ lên cánh tay ông để báo hiệu rằng ông đi lên đồi quá nhanh đối với bà, và bà phải dừng lại một chút để xem có có đống đất chuột đùn mới nào trên gò đất hay không, vậy thì, bà nghĩ, khom người xuống để nhìn, một bộ óc vĩ đại như bộ óc của ông phải khác biệt về mọi thứ với bộ óc của chúng ta. Tất cả những người đàn ông vĩ đại mà bà từng biết đều như thế cả, bà nghĩ, xác định rằng hẳn phải có một con thỏ đã đột nhập vào khu vườn, và chỉ cần nghe ông nói, chỉ đơn giản nhìn ông cũng là một điều tốt cho những chàng trai trẻ (dù bầu không khí của những giảng đường khá ngột ngạt và hầu như không thể nào chịu đựng nổi đối với bà). Nhưng nếu không bắn lũ thỏ thì người ta làm thế nào để giảm bớt số lượng của chúng? bà tự hỏi. Đó có thể là một con thỏ; đó có thể là một con chuột chũi. Dù sao thì cũng có một sinh vật nào đó đang tàn phá những khóm hoa Dạ Anh Thảo của bà. Và ngẩng nhìn lên, bà trông thấy bên trên những thân cây gầy guộc những tia sáng đầu tiên của một vì sao đang phập phồng tỏa sáng, và muốn chồng bà cũng nhìn lên nó; vì cảnh tượng đó mang tới cho bà một niềm vui rộn rã. Nhưng bà tự ngăn mình lại. Ông ấy không bao giờ nhìn những sự vật. Nếu ông ấy nhìn, tất cả những gì ông ấy nói sẽ là, Cái thế giới bé nhỏ tội nghiệp, với một tiếng thở dài.
Ngay lúc ấy, ông ấy nói, “Rất đẹp,” để làm bà vui lòng, và giả vờ ngưỡng mộ những đóa hoa. Nhưng bà biết rất rõ ông không hề ngưỡng mộ chúng, thậm chí còn không nhận ra rằng chúng hiện diện ở đó. Chỉ là để làm vui lòng bà. Chà, nhưng kia có phải là Lily Briscoe đang thả bước cạnh William Bankes không nhỉ? Bà nheo đôi mắt cận thị của mình nhìn vào lưng của hai người đằng trước. Phải, đúng là như thế. Điều đó không có nghĩa là họ sẽ lấy nhau đấy chứ? Vâng, phải là như thế! Thật là một ý tưởng tuyệt vời! Họ phải lấy nhau!    



[1] Thể thơ mà những chữ cái đầu của bài thơ nếu được ghép lại sẽ tạo thành một từ, thông thường là một danh từ riêng chỉ người, địa điểm..

[2] John Locke (1632 – 1704) triết gia Anh.

[3] David Hume (1711 - 1776) triết gia, sử gia, kinh tế gia Tô Cách Lan.
[4] George Berkeley (16851753) triết gia Ái Nhĩ Lan.
[5] Thomas Carlyle (1795 – 1881) giáo sư, sử gia, nhà văn châm biếm Tô Cách Lan.
[6] Ở đây người dịch bỏ qua một cụm từ: “If they had charades,” vì không thể dịch cho phù hợp với ngữ nghĩa của đoạn kế tiếp. Rất mong được các bậc cao minh chỉ giáo để hoàn chỉnh thêm.
[7] Dòng đầu bài thơ "To Jane: The Invitation" của nhà thơ Anh Percy Bysshe Shelley (1792-1822)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét