Thứ Bảy, 25 tháng 8, 2012

Tới ngọn hải đăng - Chương XIII - XIX





13

Ông từng tới Amsterdam, ông Bankes nói trong lúc đi chầm chậm qua bãi cỏ cùng Lily Briscoe. Ông từng xem tranh của Rembrandt. Ông từng tới Madrid. Hôm đó là ngày Good Friday[1] và viện bảo tàng Prado đóng cửa. Ông từng tới Rome. Cô Lily Briscoe có tới Rome lần nào chưa nhỉ? Ồ, cô nên tới đó – đó sẽ là một kinh nghiệm cho cô – nhà thờ Sistine; Michelangelo[2]; và nhà thờ Thánh Padua, với những bức tranh của Giotto[3]. Vợ ông đã ốm yếu suốt nhiều năm, vì thế việc ngoạn cảnh tham quan của họ chỉ ở mức độ khiêm tốn.
Cô từng tới Brussels; cô từng tới Paris nhưng chỉ ghé tạt qua để thăm một bà cô bị ốm. Cô từng tới Dresden; có vô số bức tranh cô chưa từng nhìn thấy; tuy nhiên, Lily Briscoe ngẫm nghĩ, có lẽ không xem những bức tranh đó lại tốt hơn: chúng chỉ làm cho người ta thêm thất vọng não nề với tác phẩm của chính mình. Ông Bankes nghĩ người ta có thể đưa quan điểm đó đi quá xa. Không thể nào tất cả chúng ta đều là những Titian[4] hay những Darwin[5], ông bảo; đồng thời ông nghi ngờ không biết bạn có thể có Darwin hay Titian của bạn hay không nếu nó không dành cho những người hèn mọn như chúng ta. Lily rất muốn đáp trả lại ông với một lời ca ngợi; ông không hèn mọn, ông Bankes, cô ước chi mình nói được điều đó. Nhưng ông không muốn những lời ca tụng (hầu hết mọi người đàn ông đều muốn, cô nghĩ), và cô hơi xấu hổ về sự bốc đồng của mình nên chẳng nói lời nào trong lúc ông nhận xét rằng có lẽ điều mà ông vừa nói không thích hợp cho những bức tranh. Dù sao đi nữa, Lily nói, vứt bỏ sự giả dối nhỏ nhoi của mình, cô sẽ luôn tiếp tục vẽ, vì nó làm cô thích thú. Phải, ông Bankes nói, ông chắc rằng cô sẽ làm điều đó, và, khi họ đi tới đầu bãi cỏ, ông hỏi cô rằng cô có gặp khó khăn gì trong việc tìm kiếm những chủ đề ở London hay không. Họ quay lại và nhìn thấy vợ chồng Ramsay. Vậy đó là hôn nhân, Lily nghĩ, một người đàn ông và một người đàn bà cùng nhìn một đứa bé gái ném bóng. Đó là cái mà bà Ramsay cố nói với mình đêm nọ, cô nghĩ. Vì bà ấy đang quàng một tấm khăn choàng xanh và cả hai đang đứng sát bên nhau quan sát Prue và Jasper chơi ném bắt bóng. Và đột ngột, chẳng vì lý do gì cả, có lẽ giống như khi họ đang bước ra khỏi xe điện ngầm hay rung một cái chuông, cúi xuống mọi người, biến họ thành biểu tượng, biến họ thành người đại diện, cái ý nghĩa ấy đã hiện ra ở họ, lúc này đang đứng và nhìn trong bóng tối, thành những biểu tượng của hôn nhân, chồng và vợ. Thế rồi, sau một khoảnh khắc, đường nét mang tính biểu tượng đã vượt quá những hình thù có thật chìm xuống lại, và họ trở thành, khi Lily và ông Bankes gặp họ, ông và bà Ramsay đang nhìn bọn trẻ chơi ném bóng. Tuy nhiên, trong một khoảnh khắc, dù bà Ramsay chào họ với nụ cười thường lệ (ồ, bà ấy đang nghĩ chúng tôi sẽ lấy nhau, Lily nghĩ bụng) và nói, “Tối nay tôi đã thắng,” có nghĩa là vì trước đó ông Bankes đã đồng ý ăn tối với họ chứ không bỏ về nơi trú ngụ của mình, nơi mà người đầu bếp của ông luộc rau theo đúng cách; tuy nhiên, trong một khoảnh khắc, có một cảm giác về những sự vật đã bị vỡ tung, về không gian, về sự vô trách nhiệm khi quả bóng vút lên cao, còn họ thì chạy theo nó và đánh mất nó và nhìn thấy một ngôi sao và những cành cây rũ xuống. Trong ánh sáng nhờ nhờ, đường nét của tất cả bọn họ nổi rõ lên, trông có vẻ siêu nhiên và tách biệt bởi khoảng cách lớn. Thế rồi, lao về phía sau trên khoảng không gian mênh mông đó (vì dường như thể trạng thái vững chắc đã tan biến hoàn toàn), Prue chạy hết tốc lực về phía họ và bắt lấy quả bóng sáng rực ở trên cao bằng bàn tay trái, và mẹ cô hỏi, “Chúng trở về chưa?” – tới đây trạng thái mê hoặc vỡ toang. Lúc này ông Ramsay cảm thấy có thể cười to thoải mái với ý nghĩ rằng Hume đã sa lầy và một người phụ nữ lớn tuổi đã cứu mạng ông ta với điều kiện ông ta phải cầu nguyện Chúa, và vừa cười thầm ông vừa lững thững bỏ đi với những suy tư trầm mặc của mình. Bà Ramsay đưa Prue trở lại với trò ném bóng mà cô vừa thoát ra và hỏi:
“Nancy có đi với họ không?”


14

(Tất nhiên, Nancy đã đi với họ, vì Minta Doyle đã đề nghị điều đó với ánh nhìn câm lặng và bàn tay chìa ra của mình khi Nancy rời khỏi căn gác mái của nó, sau bữa ăn trưa, để thoát khỏi sự kinh khủng của đời sống gia đình. Lúc ấy nó cho là nó phải đi. Nó không muốn đi. Nó không muốn bị lôi kéo vào tất cả những chuyện đó. Vì khi họ đi dọc con đường tới vách đá Minta vẫn tiếp tục nắm lấy tay nó. Vậy thì nó mặc kệ. Vậy thì nó đi với họ. Có phải đó là điều mình muốn hay không? Nancy tự hỏi. Dĩ nhiên, mọi người phải mong muốn một thứ gì đó; vì khi Minta nắm bàn tay nó và giữ chặt, Nancy đã, một cách miễn cưỡng, nhìn thấy toàn thế giới trải dài bên dưới mình, như thể đó là thành Constantinop được nhìn thấy qua một màn sương, và rồi, dù người ta có mặt nặng mặt nhẹ đến thế nào, người ta cũng cần phải hỏi, “Đó có phải là nhà thờ Santa Sofia?” “Đó có phải là chiếc sừng vàng?” Vì thế Nancy hỏi, khi Minta nắm tay nó. “Chị ta muốn gì vậy? Có phải điều đó hay không?” Và điều đó là gì? Đó đây, từ màn sương (khi Nancy nhìn xuống cuộc sống trải ra bên dưới nó) hiện ra một chóp đỉnh, một mái vòm; những thứ nổi bật, không tên. Nhưng khi Minta buông tay nó ra trong lúc họ đang chạy xuống sườn đồi, tất cả những thứ đó, mái vòm, chóp đỉnh, bất kể cái thứ đã hiện ra từ màn sương đó là gì, lại chìm khuất và biến mất. Minta, Andrew nhận xét, là một tay đi bộ rất khá. Cô mặc những thứ quần áo rất thực tế. Cô mặc những chiếc váy rất ngắn và những cái quần chẽn gối đen. Cô có thể nhảy ào xuống một con suối và lóp ngóp lội qua. Cậu thích sự táo bạo của cô, nhưng lại thấy điều đó không ích lợi gì – một hôm nào đó gần đây cô có thể tự giết mình theo một cách thức ngu ngốc nào đó. Dường như cô chẳng e sợ cái quái gì – ngoại trừ những con bò đực. Chỉ cần nhìn thấy một con bò đực trong một cánh đồng là cô sẽ vung tay tán loạn và vừa bỏ chạy vừa la hét, dĩ nhiên, đó chính là hành động khiến cho một con bò thêm hăng tiết. Nhưng cô không hề ngần ngại chút xíu nào khi thú nhận điều đó; người ta phải thừa nhận thế. Cô biết cô hèn nhát kinh khủng về những con bò đực, cô bảo. Cô nghĩ hẳn là cô đã từng bị tung lên trong chiếc xe nôi hồi còn là một em bé. Có vẻ như cô không hề bận tâm tới những gì mình nói hay làm. Đột nhiên lúc này cô khom xuống từ rìa vách đá và bắt đầu hát một bài ca nào đó,
Đồ chết tiệt, đồ quỷ tha ma bắt!
Tất cả bọn họ cùng cất tiếng đồng ca và hét lớn:
Đồ chết tiệt, đồ quỷ tha ma bắt,
nhưng việc thủy triều dâng lên và tràn ngập tất cả các khu vực săn bắt tốt trước khi họ xuống tới bãi biển đúng là một tai họa.
“Tai họa,” Paul đồng ý, nhảy cẩng lên và khi họ loạng choạng đi xuống, anh ta trích dẫn cuốn sách hướng dẫn về việc “những hòn đảo này được tán dương rất đúng về những phong cảnh trông như công viên và sự phong phú đa dạng của những kỳ hoa dị thảo vùng biển này”. Nhưng cái sự la hét và chửi toáng lên này chưa hoàn toàn đủ, Andrew cảm thấy thế, trong khi chọn lối để đi xuống vách đá, cái sự vỗ lên vai cậu và gọi cậu là “anh bạn cũ”, và tất cả những chuyện đó; chưa hoàn toàn đủ. Việc đưa phụ nữ đi tản bộ là chuyện tệ hại nhất. Khi họ đã tách nhau ra ở bãi biển, cậu đi tiếp tới chỗ doi đất, tháo giày ra, nhét đôi tất vào đó và mặc cho cặp trai gái đó tự lo cho họ; Nancy  lội ra những tảng đá riêng của nó và tìm kiếm những vũng nước của mình và cũng để cho cặp trai gái đó tự lo cho họ. Nó khom thấp xuống và chạm tay vào những bụi cỏ chân ngỗng êm ái như cao su, trông như những khối thạch bám vào cạnh của tảng đá. Vừa ngẫm nghĩ, nó vừa biến vũng nước thành biển cả và biến những con cá tuế thành lũ cá mập và cá voi, và gieo những bóng mây rộng lớn lên cái thế giới bé tí này bằng cách giơ tay lên ngăn ánh mặt trời, và bằng cách đó mang tới bóng tối và sự đìu hiu, như chính bản thân Thượng đế, cho hàng triệu sinh vật vô tư ngu dốt, rồi đột ngột đưa bàn tay ra xa để ánh mặt trời đổ xuống. Ngoài kia, trên những lượn cát xám chồng chéo lên nhau, những con thủy quái lạ lùng chân giơ cao, thân bọc sắt đang hiên ngang đi lại (nó vẫn đang mở rộng vũng nước) rồi trượt vào những vết nứt rộng của vách núi. Và rồi, kín đáo lướt mắt qua cái vũng, dừng lại trên cái đường nét chập chùng giữa trời và biển, với tất cả sức mạnh đang hung hãn quét vào rồi lại rút ra đó, nó như bị thôi miên, và hai nhận thức về sự mênh mông kia và sự bé nhỏ này (cái vũng đang thu nhỏ lại) đang bung nở bên trong khiến nó cảm thấy như đã bị trói cả chân tay và không thể cử động bởi cường độ của những cảm giác mà lúc này đang giảm thiểu thân vóc của chính nó, cuộc sống của chính nó, cũng như cuộc sống của tất cả mọi người trên thế giới, thành sự hư vô, mãi mãi. Cứ thế, vừa lắng nghe tiếng sóng, khom người bên trên vũng nước, nó vừa ngẫm nghĩ.  
Và Andrew la lớn rằng biển đang tiến vào, vì thế nó nhảy tung tăng qua những lượn sóng nông để vào bờ, chạy ngược lên bãi biển, được mang đi bởi sự bốc đồng và niềm khao khát tốc độ cao, ra ngay phía sau một tảng đá và ở đó – ôi, trời! là Paul và Minta, trong vòng tay của nhau, đang hôn nhau, có lẽ. Nó tức tối, phẫn nộ. Nó và Andrew mang giày vớ vào trong sự im lặng chết người và không nói một lời nào về chuyện đó. Thật ra hai bên khá hiểu nhau. Nó có thể gọi cậu khi nhìn thấy một con tôm hay bất cứ thứ quái gì, Andrew lẩm bẩm. Tuy nhiên, cả hai cảm thấy, đây không phải là lỗi của tụi mình. Chúng không muốn cái chuyện phiền toái kinh khủng này xảy ra. Cũng hệt vậy, Anrew thấy bực mình vì Nancy sẽ trở thành một người phụ nữ, còn Nancy thì bực mình vì Andrew sẽ trở thành một người đàn ông. Chúng cột giày của mình rất gọn ghẽ và thắt nút giày thật chặt. 
Chỉ tới khi họ đã trèo trở lại đến đỉnh vách đá Minta mới la lên rằng cô đã làm mất cái trâm cài đầu của bà mình – cái trâm cài của bà, vật trang sức duy nhất mà cô có – có hình một cành liễu rũ, nó được kết lại từ những hạt ngọc trai (chúng hẳn phải nhớ nó). Chúng hẳn đã từng trông thấy nó, cô nói, với những giọt nước mắt đầm đìa trên đôi má, cái trâm mà bà cô đã dùng để cài mũ của mình cho tới ngày cuối cuộc đời. Giờ thì cô đã đánh mất nó. Cô thà mất bất cứ thứ gì khác hơn là mất nó! Cô sẽ quay lại và tìm nó. Cả bọn quay trở lại. Họ sục sạo, tìm kiếm, ngó quanh. Họ cúi đầu thật thấp, và nói những câu ngắn ngủi, cộc lốc. Paul Rayley tìm kiếm như một gã điên quanh khắp tảng đá nơi họ đã ngồi. Toàn bộ những chuyện nhặng xị về một cái trâm cài này thật sự chẳng ra làm sao cả, Andrew nghĩ, khi Paul bảo cậu tiến hành một “cuộc tìm kiếm cẩn thận giữa điểm này và điểm kia.” Thủy triều đang lên nhanh. Biển sẽ dâng ngập nơi họ đã ngồi trong vòng một phút nữa. Bây giờ thì chẳng có chút xíu cơ may nào để họ tìm ra nó. “Chúng ta sẽ bị đứt chân đứt tay!” Minta hét lên, đột nhiên thấy hoảng sợ. Như thể chuyện đó rất nguy nan! Một lần nữa, cái cảm giác này hệt như đối với những con bò đực – chị ta chẳng có chút kiểm soát nào đối với các cảm xúc của mình, Andrew nghĩ. Phụ nữ không có. Anh chàng Paul khốn khổ đó phải giúp cho chị ta dịu lại. Hai người đàn ông (ngay lập tức Andrew và Paul trở thành đàn ông và khác với ngày thường) hội ý vắn tắt với nhau và quyết định rằng họ sẽ cắm cây gậy của Rayley tại nơi họ đã ngồi và sẽ quay lại khi thủy triều xuống thấp. Bây giờ thì chẳng thể làm gì hơn được. Nếu cái trâm có ở đó, nó vẫn sẽ ở đó vào buổi sáng, họ cam đoan với Minta, nhưng cô vẫn tiếp tục khóc thút thít suốt chặng đường quay trở lên vách đá. Đó là cái trâm của bà chị ta; chị ta thà mất bất cứ thứ gì khác còn hơn là mất nó, thế nhưng Nancy cảm thấy, có lẽ đúng là chị ta lưu tâm tới chuyện đánh mất cái trâm, nhưng chị ta không chỉ khóc vì điều đó. Chị ta đang khóc vì một điều gì khác. Có lẽ tất cả chúng ta nên ngồi xuống và khóc, nó cảm thấy thế. Nhưng nó không biết khóc để làm gì.
Họ tiến lại gần nhau, Paul và Minta, và anh an ủi cô, bảo rằng anh nổi tiếng về việc tìm ra những thứ bị thất lạc. Có một lần hồi còn là một đứa nhóc con anh đã tìm thấy một cái đồng hồ bằng vàng. Anh sẽ thức dậy vào rạng sáng và chắc chắn rằng anh sẽ tìm được nó. Với anh, dường như trời sẽ hoàn toàn tối, và anh sẽ ở trên bãi biển một mình, và vì lý do nào đó sẽ khá là nguy hiểm. Tuy vậy, anh bắt đầu nói với cô rằng anh chắc chắn sẽ tìm ra nó, và cô bảo rằng cô sẽ không nghe thấy anh thức giấc vào rạng sáng: nó đã mất, cô biết thế: cô đã có một linh cảm khi đeo nó lúc chiều. Và anh âm thầm quyết định rằng anh sẽ không nói với cô mà sẽ lẻn ra khỏi nhà vào rạng sáng trong lúc mọi người còn ngủ và nếu không tìm ra nó anh sẽ đi tới Edinburgh mua cho cô một cái trâm khác, cũng giống như thế nhưng đẹp hơn. Anh sẽ chứng minh anh có thể làm được những gì. Khi họ ra khỏi ngọn đồi và nhìn thấy những ánh đèn trong thị trấn bên dưới, những ánh đèn lần lượt hiện ra đột ngột đó dường như là những gì sẽ xảy ra đối với anh – cuộc hôn nhân của anh, lũ con của anh, ngôi nhà của anh; và một lần nữa anh thầm nghĩ, khi họ ra tới con đường lớn, bị che tối bởi những bụi cây cao, họ sẽ rút lui trở lại vào sự thanh vắng ra sao, và cứ đi, đi mãi, anh luôn luôn dẫn dắt cô, và cô nép sát bên anh (như lúc này đang nép sát). Khi họ quẹo ở chỗ ngã tư đường anh nghĩ anh đã có một trải nghiệm kinh khủng biết bao, và anh phải nói với một ai đó – tất nhiên là bà Ramsay, vì khi nghĩ tới những gì mình đã trải qua và thực hiện anh thấy muốn hụt hơi. Cái thời khắc tệ hại nhất đời anh, khi anh cầu hôn với Minta, đã trôi xa. Anh phải đi thẳng tới bà Ramsay, bởi lẽ, vì một lý do nào đó, anh cảm thấy chính bà là người đã thôi thúc anh làm điều đó. Bà đã khiến cho anh nghĩ rằng anh có thể làm được bất cứ điều gì. Không có người nào khác nghiêm túc với anh hơn thế. Nhưng bà khiến cho anh tin rằng anh có thể làm được bất kỳ điều gì anh muốn. Anh cảm thấy đôi mắt của bà đặt lên mình suốt cả ngày hôm nay, đi theo anh khắp chốn (dù bà không hề nói một lời nào) như thể bà đang bảo, “Phải, cậu có thể làm điều đó. Tôi tin ở cậu. Tôi kỳ vọng điều đó ở cậu.” Bà đã khiến cho anh cảm thấy tất cả những thứ đó, và ngay sau khi về tới nhà (anh dõi mắt tìm những ánh đèn của ngôi nhà bên trên cái vịnh) anh sẽ tới gặp bà và nói, “Tôi đã làm điều đó, bà Ramsay ạ; nhờ ở bà.” Khi quẹo vào con đường dẫn tới nhà anh đã có thể nhìn thấy những ánh đèn chao động trong những khung cửa sổ tầng trên. Hẳn là họ đã về rất muộn. Mọi người đang sẵn sàng cho bữa ăn tối. Ngôi nhà đã thắp sáng đèn, và những ánh đèn phía sau bóng tối khiến anh thấy đôi mắt mình tràn ngập, và anh tự nói với chính mình, theo cách hơi trẻ con, khi bước lên con đường, Những ánh đèn, những ánh đèn, những ánh đèn, và lặp lại một cách bàng hoàng, Những ánh đèn, những ánh đèn, những ánh đèn, khi họ bước vào nhà và anh nhìn quanh mình với gương mặt hoàn toàn kiên quyết. Nhưng, lạy Chúa, anh tự nhủ, đưa tay lên chiếc cà vạt, mình không được tự biến mình thành một thằng ngốc.) 


15

“Vâng,” Prue nói, theo cái cách cân nhắc của cô, để đáp lại câu hỏi của mẹ cô, “Con nghĩ là Nancy đã đi với họ.”


16
Vậy thì tốt, Nancy đã đi với chúng, bà Ramsay nghĩ, tự hỏi, khi bà đặt cái cọ xuống và cầm một cái lược lên, rồi nói “Mời vào,” khi có tiếng gõ cửa (Jasper và Rose vào), thực tế rằng Nancy đi với chúng có khiến cho khả năng một điều gì đó xảy ra nhiều hơn hay ít hơn hay không; nó khiến cho khả năng đó ít xảy ra hơn, bà Ramsay nghĩ, vì một lý do nào đó, rất vô lý, ngoại trừ rằng nói cho cùng tất cả những cái chết tập thể ở tầm mức đó là không có khả năng. Chúng không thể bị chết đuối hết cả được. Và một lần nữa bà cảm thấy cô đơn trong sự hiện diện của đối thủ cũ của bà, cuộc sống.
Jasper và Rose bảo rằng Mildred muốn biết bà ta có cần đợi cho bữa ăn tối hay không.
“Không, đối với Nữ Hoàng Anh Quốc,” bà Ramsay nói một cách nhấn mạnh.
“Không, đối với Nữ Hoàng Mễ Tây Cơ”, bà nói thêm, cười to với Jasper; vì nó chia sẻ với thói xấu của mẹ nó: cả nó cũng hay phóng đại. 
Và nếu Rose thích, bà nói, trong lúc Jasper đi chuyển bức thông điệp, có lẽ bà sẽ chọn những thứ nữ trang để đeo. Khi có tới mười lăm người dự bữa ăn tối, người ta không thể để mọi thứ phải chờ đợi mãi. Lúc này bà bắt đầu thấy bực mình với chúng về việc quá chậm trễ; chúng thật chẳng chú tâm chút nào, và điều làm bà bực nhất là nỗi lo âu bồn chồn về chúng, về việc chúng chọn đúng ngay chính đêm nay để đi ra ngoài muộn, khi mà, thật vậy, bà mong muốn bữa tiệc sẽ rất đỗi tuyệt vời, vì cuối cùng William Bankes cũng đã ưng thuận dùng bữa cùng với họ; và họ sẽ thưởng thức món ăn tuyệt diệu của Mildred – BOEUF EN DAUBE [thịt bò hầm]. Mọi chuyện tùy thuộc vào những thứ sắp được phục vụ vào chính xác thời điểm mà họ đã sẵn sàng. Thịt bò, lá nguyệt quế và rượu vang – tất cả phải được đưa lên một lượt. Không thể có chuyện phải chờ đợi. Thế nhưng, tất nhiên, đêm nay, trong tất cả các đêm, chúng lại ra ngoài đi dạo, và trở về muộn, và mọi thứ phải được sắp bày ra sẵn, mọi thứ phải được giữ cho nóng sốt; món BOEUF EN DAUBE sẽ bị hỏng hoàn toàn.
Jasper đưa cho bà một cái vòng cổ bằng ngọc mắt mèo; Rose thì chiếc vòng cổ bằng vàng. Thứ nào trông đẹp nhất trên chiếc váy đen của bà nhỉ? Thật ra thì tấm gương sẽ nói lên điều đó, ông Ramsay nói một cách lơ đãng, nhìn vào vai và cổ của bà (nhưng tránh nhìn vào mặt bà). Thế rồi, trong lúc lũ trẻ lục lọi trong số các thứ đồ trang sức của bà, bà nhìn ra cửa sổ vào một cảnh tượng luôn khiến cho bà thích thú – những con quạ đang cố gắng quyết định sẽ đậu xuống cây nào. Cứ mỗi lần như thế, dường như chúng lại đổi ý và bay lên không trung trở lại, bởi vì, bà nghĩ, con quạ già, con quạ bố, Joseph già, cái tên mà bà đặt cho nó, là một con chim có tâm tính rất khó khăn và gắt gỏng. Nó là một con quạ già có thành tích bất hảo, với bộ lông cánh đã mất hết phân nửa. Nó giống như một quý ông lớn tuổi xác xơ với một cái mũ chóp cao mà bà từng trông thấy đang thổi kèn co trước một tiệm rượu.
“Nhìn kia,” bà nói, cười lớn tiếng. Chúng đang đánh nhau thật sự. Joseph và Mary đang đánh nhau. Dù sao thì chúng cũng bay trở lên, và bầu không trung trở nên náo động bởi những đôi cánh đen của chúng và bị cắt thành những hình thanh đao tinh tế.
Chuyển động của những đôi cánh bung ra, bung ra, bung ra – bà không bao giờ có thể mô tả chính xác nổi điều này để làm hài lòng bản thân mình – là một trong những thứ đáng yêu nhất đối với bà. Vừa nhìn vào đó, bà vừa nói với Rose, hy vọng nó có thể nhìn thấy rõ hơn bà. Vì lũ con cái thường hay thúc đẩy những nhận thức của người ta đi xa hơn.
Nhưng sẽ là món nào đây? Chúng đã mở bung tất cả những hộp đựng nữ trang của bà. Chiếc vòng vàng của Ý, hay là chiếc vòng ngọc mắt mèo mà cậu James đã mang từ Ấn Độ về cho bà; hay bà nên đeo chiếc vòng thạch anh tím của mình?
“Chọn đi, các con cưng, chọn đi,” bà nói, hy vọng chúng sẽ vội vàng lên.
Nhưng bà phải cho chúng thời gian để chọn lựa: đặc biệt, bà để cho Rose nhấc hết món này tới món kia lên, và ướm các thứ nữ trang lên chiếc váy đen, vì cái nghi lễ chọn nữ trang bé nhỏ này, vốn phải được cử hành hàng đêm, là việc mà Rose thích nhất, bà biết. Bà có một lý do thầm kín của chính mình đối với việc gán một ý nghĩa quan trọng cho việc chọn món nữ trang mà mẹ bà sẽ đeo. Lý do đó là gì, bà Ramsay tự hỏi, vẫn đứng yên để nó cài chiếc vòng cổ mà nó đã chọn, trực cảm, thông qua quá khứ của chính bà, một cảm giác sâu thẳm, chôn giấu, hoàn toàn không thể diễn đạt bằng lời mà một đứa bé ở tuổi của Rose có đối với mẹ của mình. Giống như tất cả những cảm giác cảm nhận về chính mình, bà Ramsay nghĩ, nó khiến cho người ta buồn bã. Thứ mà người ta có thể đáp lại thật vô cùng không tương xứng; và điều mà Rose cảm nhận hoàn toàn không thể sánh với bất kỳ cái gì mà nó thật sự là. Và Rose sẽ trưởng thành; và Rose sẽ khổ đau, bà cho là thế, với những cảm giác sâu sắc này, và bà bảo rằng bây giờ bà đã sẵn sàng, họ sẽ đi xuống dưới, vì Jasper là một quý ông, nó nên khuỳnh cánh tay ra cho bà, còn Rose, vì là một tiểu thư, nên mang theo chiếc khăn tay (bà trao cho nó chiếc khăn tay), còn gì khác không nhỉ? ồ, phải, trời có thể lạnh: một tấm khăn choàng. Chọn cho mẹ một tấm khăn choàng, bà nói, vì điều đó sẽ làm hài lòng Rose, người sẽ gánh chịu khổ đau. “Kìa,” bà nói, dừng lại cạnh khung cửa sổ trên đầu cầu thang, “chúng lại trở về chỗ đó rồi.” Joseph đã đậu trên một ngọn cây khác. “Con nghĩ xem chúng có quan tâm tới việc cánh của chúng bị gẫy không?” bà nói với Jasper. Tại sao nó lại bắn con quạ già Joseph và Mary tội nghiệp? Nó hơi lê chân một chút trên những bậc thang, và cảm thấy bị quở trách, nhưng không nghiêm trọng lắm, vì bà không hiểu niềm vui của việc bắn chim; và lũ chim cũng không cảm thấy; và vì là mẹ nó, bà sống xa cách ở một bờ cõi khác của thế gian, nhưng nó rất thích những câu chuyện của bà về Mary và Joseph. Bà làm cho nó cười vui. Nhưng làm thế nào bà biết được những con chim đó là Mary và Joseph? Bà có nghĩ là những con chim đó sẽ đậu ở cùng những ngọn cây vào mỗi đêm? nó hỏi. Nhưng tới đây, đột nhiên, như mọi người lớn khác, bà thôi không chú ý tới nó chút nào nữa. Bà đang lắng nghe tiếng lách cách trong sảnh lớn. 
“Chúng đã quay về!” bà kêu lên, và ngay lập tức bà cảm thấy thêm bực bội chúng chứ không hề thấy nhẹ nhõm. Rồi bà tự hỏi, chuyện đó có xảy ra hay không? Bà sẽ đi xuống và chúng sẽ trả lời – nhưng không. Chúng không thể nói với bà bất cứ điều gì khi có tất cả mọi người ở xung quanh. Vì thế bà phải đi xuống và bắt đầu bữa tiệc và chờ đợi. Và, giống như một nữ hoàng, nhận thấy thần dân của mình đã tập trung trong sảnh, nhìn xuống họ, cúi xuống họ, lặng lẽ ghi nhận lòng thành kính của họ, chấp nhận lòng tôn kính và tận tụy của họ ở trước mặt bà (Paul không nhúc nhích một cơ bắp nào mà chỉ nhìn thẳng về phía trước khi bà đi ngang qua); bà đi xuống và băng ngang qua sảnh, hơi nhẹ cúi đầu chào, như thể bà chấp nhận điều mà họ không thể nói: sự tôn kính của họ đối với vẻ đẹp của bà. 
Nhưng bà dừng lại. Có một mùi khen khét. Có khi nào họ đã nấu quá lửa món thịt bò hầm? bà tự hỏi, cầu trời là không! Khi tiếng cồng lanh lảnh thông báo một cách nghiêm trang, đầy thẩm quyền rằng tất cả những ai đang rải rác quanh nhà, trong những tầng áp mái, trong những phòng ngủ, trong những chốn trú ngụ bé nhỏ của riêng họ, đang đọc, đang viết, đang vuốt mượt lần cuối mái tóc của mình, hay đang thắt dây những chiếc váy, phải rời bỏ tất cả những việc đó cùng những thứ đồ lặt vặt trên những bàn rửa chén, những bàn trang điểm, và những cuốn tiểu thuyết trên những bàn đầu giường ngủ, và những cuốn nhật ký rất riêng tư, để tụ họp lại tại phòng khách cho bữa ăn tối.


17

Nhưng mình đã làm gì với cuộc đời mình? Bà Ramsay nghĩ, ngồi vào chỗ của mình ở đầu bàn, và nhìn lướt qua tất cả những chiếc đĩa tạo thành những vòng tròn màu trắng trên bàn. “William, ngồi cạnh tôi,” bà nói. “Lily, bà mệt nhọc nói, “ở đàng kia.” Họ có thứ đó – Paul Rayley và Minta – còn bà, chỉ có thứ này – một cái bàn dài vô tận và những đĩa, những dao ăn. Ở đầu kia bàn là chồng bà, đang ngồi xuống, thừ người ra, trán cau lại. Vì cái gì? Bà không biết. Bà không quan tâm. Bà không thể hiểu làm thế nào bà lại từng cảm thấy một tình cảm hay sự yêu mến nào đối với ông. Bà có một cảm giác về việc lướt qua mọi thứ, đi xuyên qua mọi thứ, vượt ra khỏi mọi thứ, khi bà giúp phục vụ món xúp, như thể có một xoáy nước – ở đó – và người ta có thể ở bên trong nó, hoặc có thể ở phía ngoài nó, và bà đang ở bên ngoài nó. Tất cả đang đi tới một kết thúc, bà nghĩ, trong khi họ nối nhau bước vào, Charles Tansley – “xin mời ngồi ở kia,” bà nói – Augustus Carmichael – và ngồi xuống. Và trong lúc đó bà chờ đợi, một cách thụ động, sẽ có một ai đó trả lời bà, sẽ có một điều gì đó sắp xảy ra. Nhưng việc múc xúp ra dĩa không phải là thứ chuyện mà người ta nói, bà nghĩ.
Nhướng mày nhìn vào sự khác biệt – đó là điều mà bà đang suy nghĩ; múc xúp ra dĩa – đây là điều mà bà đang thực hiện; bà cảm thấy, ngày càng mạnh mẽ hơn, mình ở phía ngoài cái xoáy nước đó; hoặc như thể một bóng tối đã buông xuống, và màu sắc đã bị tước mất, bà nhìn mọi sự vật với ánh mắt xác thực. Căn phòng (bà nhìn quanh) rất tồi tàn. Chẳng có vẻ đẹp ở bất kỳ chỗ nào. Bà nhìn Tansley. Dường như chẳng có gì là hòa hợp. Tất cả bọn họ ngồi cách biệt nhau. Và toàn bộ nỗ lực để hợp nhất, lưu thông và sáng tạo đều đặt lên bà. Một lần nữa bà cảm thấy, như là một thực tế chứ không có chút thù địch nào, sự cằn cỗi vô dụng của những người đàn ông, vì nếu bà không làm điều đó thì chẳng có ai làm cả, và thế là, bà tự lắc khẽ chính mình như một người lắc khẽ một chiếc đồng hồ đã dừng chạy, cái nhịp cũ kỹ quen thuộc bắt đầu đập, như chiếc đồng hồ bắt đầu kêu tích tắc – một, hai, ba, một, hai, ba. Và cứ thế, và cứ thế, bà lặp lại, lắng nghe nó, che chở và nuôi dưỡng cái nhịp đập mong manh lặng lẽ đó như người ta che chở một ngọn lửa yếu ớt bằng một tờ nhật báo. Và thế đấy, bà kết luận, tỏ ra chú tâm bằng cách lặng lẽ nghiêng người về phía William Bankes – con người tội nghiệp! kẻ không vợ không con và ăn tối một mình trong những căn nhà trọ ngoại trừ tối hôm nay; và trong niềm thương xót dành cho ông ta, bản chất cuộc sống giờ đây đủ mạnh mẽ để gánh vác bà lần nữa, bà khởi đầu tất cả mọi việc này, như một thủy thủ, không phải là không mệt mỏi, nhìn cơn gió căng lộng cánh buồm của anh ta, nhưng hầu như vẫn mong muốn được ra khơi lần nữa và nghĩ tới việc nếu con tàu bị đắm, anh ta sẽ bị cuốn tròn, cuốn tròn mãi và được tìm thấy nằm nghỉ ngơi trên đáy biển như thế nào.
“Ông có tìm thấy mấy lá thư của mình không? Tôi đã bảo lũ trẻ đặt chúng trong sảnh cho ông,” bà nói với William Bankes.
Lily Briscoe quan sát bà trôi giạt vào vùng đất lạ không người nơi mà việc dõi theo mọi người là bất khả thế nhưng họ tiếp tục trút một gáo nước lạnh vào những người đang quan sát họ rằng ít nhất họ luôn cố gắng dõi mắt theo những người đó như thể một người dõi theo một con tàu đang nhòa dần cho tới khi những cánh buồm đã chìm xuống dưới chân trời.
Trông bà già nua làm sao, trông bà tiều tụy làm sao, và xa vắng làm sao, Lily nghĩ. Rồi khi bà quay sang William Bankes, mỉm cười, trông như thể con tàu đã quay trở lại và vầng dương lại tỏa sáng những cánh buồm của nó, và Lily nghĩ bụng với một niềm thích thú vì bà đã bớt căng thẳng, Vì sao bà lại thương hại ông ta? Vì đó chính là ấn tượng mà bà tạo nên, khi bà nói với ông ta rằng những lá thư của ông ta đã được mang vào sảnh. William Bankes khốn khổ, như thể bà đang nói, như thể sự mệt nhọc của chính bà phần nào đó là do sự thương hại mọi người, và sự sống trong bà, sự quyết tâm sống trở lại của bà, đã bị khuấy động lên bởi lòng thương hại. Và điều này không đúng, Lily nghĩ; đó là một trong những phán đoán sai lầm của bà, nó dường như mang tính bản năng và phát sinh từ một nhu cầu nào đó của chính bà hơn là của những người khác. Ông ta chẳng đáng thương chút nào hết. Ông ta có công việc của mình, Lily tự nhủ. Đột nhiên cô nhớ ra, như thể vừa tìm ra một kho báu, rằng cô cũng có công việc của mình. Trong một khoảnh khắc nhanh như chớp cô nhìn thấy bức tranh của mình, và nghĩ bụng, Phải, mình sẽ đặt cái cây ra xa hơn về phía chính giữa; khi đó mình sẽ tránh được khoảng trống vụng về đó. Đó chính là điều mình sẽ làm. Đó chính là cái đã khiến cho mình lúng túng. Cô nhấc lọ muối lên rồi đặt nó xuống lại trên một hình mẫu bông hoa trên tấm khăn trải bàn, như để tự nhắc nhở mình về việc dời chỗ cái cây.
“Thật kỳ lạ khi người ta hiếm khi nhận được thứ gì đáng giá từ bưu điện, thế nhưng người ta luôn mong muốn nhận được những lá thư,” ông Bankes nói.
Họ nói toàn chuyện vớ vẩn, Charles Tansley nghĩ, đặt cái muỗng vào ngay giữa đĩa đã hết sạch thức ăn của mình, như thể, Lily nghĩ (anh ta ngồi đối diện với cô và quay lưng về phía cửa sổ, đúng ngay chính giữa tầm nhìn), anh ta muốn chắc chắn về bữa ăn của mình. Mọi thứ quanh anh ta đều có cái vẻ ổn định đạm bạc đó, cái vẻ vô duyên trần trụi đó. Nhưng dù sao đi nữa, thực tế này vẫn tồn tại, rằng người ta không thể ghét bỏ bất kỳ một người nào nếu nhìn họ. Cô thích đôi mắt của anh ta; chúng có màu xanh biển, sâu thẳm, đáng sợ.
“Anh viết nhiều thư không, anh Tansley?” bà Ramsay hỏi, tỏ vẻ thương hại cả anh ta nữa, Lily cho là vậy; vì với bà Ramsay thì đúng là như thế – bà luôn thương hại lũ đàn ông như thể họ thiếu một thứ gì đó – còn đối với bọn đàn bà thì không bao giờ, như thể họ có một thứ gì đó. Anh đã viết cho mẹ anh; ngoài ra anh không nghĩ rằng anh sẽ viết mỗi tháng một lá thư, Tansley nói ngắn gọn.
Vì anh sẽ không nói thứ chuyện vớ vẩn mang tính chiếu cố của những người đàn bà ngốc nghếch này. Anh vừa đọc sách trong phòng mình, và giờ đây anh đi xuống và dường như đối với anh tất cả những chuyện này đều ngốc nghếch, giả tạo, nông cạn. Vì sao họ phải mặc lễ phục? Anh chỉ xuống đây trong bộ quần áo bình thường của mình. Anh chẳng có một bộ đồ vía nào cả. “Người ta không bao giờ nhận được thứ gì đáng giá từ bưu điện” – đó là thứ chuyện mà họ luôn nói tới. Họ khiến cho những người đàn ông phải nói thứ chuyện đó. Phải, đúng là như thế, anh nghĩ. Họ không bao giờ nhận được thứ gì đáng giá từ năm này sang năm khác. Họ chẳng làm gì ngoài việc nói, nói, nói, ăn, ăn, ăn. Đó là điểm khiếm khuyết của những người đàn bà. Những người đàn bà làm cho nền văn minh trở nên bất khả thi với tất cả những vẻ “yêu kiều” của họ, tất cả những điều ngốc nghếch của họ.     
“Ngày mai sẽ không đi ra ngọn hải đăng được đâu, bà Ramsay,” anh nói, tự khẳng định bản thân. Anh thích bà; anh ngưỡng mộ bà; anh vẫn hay nghĩ tới người đàn ông đứng trong rãnh nước đã ngẩng lên nhìn bà; nhưng anh cảm thấy cần phải khẳng định bản thân.
Anh ta nói thật, Lily Briscoe nghĩ, bất kể đôi mắt của anh ta, nhưng rồi khi nhìn vào  mũi của anh ta, đôi bàn tay của anh ta, cô thấy đây là con người ít quyến rũ nhất mà cô từng gặp. Vậy thì vì sao cô phải quan tâm tới những gì anh ta nói? Đàn bà không thể viết, đàn bà không thể vẽ – những gì xuất phát từ anh ta có gì là quan trọng, vì rõ ràng điều đó là không đúng đối với anh ta nhưng vì một nguyên nhân nào đó lại có lợi cho anh ta, và đó chính là lý do vì sao anh ta nói thế? Vì sao toàn bộ con người cô đã ngã rạp xuống, như một ngọn bắp dưới một cơn gió, và chỉ có thể vươn thẳng trở lại từ nỗi ô nhục này với một nỗ lực lớn lao và khá là đau đớn? Cô phải thực hiện nó thêm một lần nữa. Có cái chồi cây trên tấm khăn trải bàn; Có bức tranh của mình; Mình phải dời cái cây vào giữa; đó là điều quan trọng – không điều gì khác nữa. Cô có thể không thực hiện ngay điều đó mà không nôn nóng và không gây gỗ hay không, cô tự hỏi; và cô có muốn trả thù bằng cách chế nhạo anh ta hay không?
“Ồ, anh Tansley,” cô nói, “hãy đưa tôi ra ngọn hải đăng với anh nhé. Tôi thích như thế.”
Anh có thể thấy cô ta đang nói dối. Cô ta đang nói một điều không nằm trong ý định của mình để chọc tức anh, vì một lý do nào đó. Cô ta đang chế nhạo anh. Anh mặc cái quần vải flannel cũ của mình. Anh chẳng có cái nào khác. Anh cảm thấy mình rất thô lỗ, đơn độc, lẻ loi. Anh biết rằng cô ta đang chế nhạo anh vì một lý do nào đó; cô ta không hề muốn đi ra ngọn hải đăng với anh; cô ta coi thường anh; Prue Ramsay cũng vậy; tất cả bọn họ cũng vậy. Nhưng anh sẽ không bị biến thành một gã ngốc bởi những mụ đàn bà, vì thế anh cố tình xoay cái ghế, nhìn ra phía cửa sổ và nói, rất giật cục, thô lỗ, rằng ngày mai sẽ rất gian nan cho cô. Cô sẽ bị ốm.
Điều khiến anh bực tức là cô ta đã buộc anh phải nói như thế, với sự lắng nghe của bà Ramsay. Giá mà anh có thể yên thân một mình làm việc trong căn phòng của mình, giữa những cuốn sách, anh nghĩ thầm. Đó là nơi mà anh thấy thoải mái nhất. Và anh chưa bao giờ vay nợ một xu nào; anh chưa hề làm cho cha anh phải tốn xu nào từ năm mười lăm tuổi; anh đã trợ giúp những người nhà từ tiền dành dụm của mình; anh đã dạy em gái anh học. Tuy nhiên, anh ước giá mà mình biết cách trả lời Lily một cách đúng mực; anh ước giá mà mình không thốt ra câu đó một cách giật cục như thế. “Cô sẽ bị ốm.” Anh ước gì mình có thể nghĩ ra một điều gì đó để nói với bà Ramsay, một điều gì đó có thể chỉ ra cho bà thấy rằng anh không chỉ là một nhánh cây khô. Đó là điều mà tất cả bọn họ nghĩ về anh. Anh quay về phía bà. Nhưng bà Ramsay đang nói chuyện với William Bankes về những người mà anh chưa bao giờ nghe nói tới.
“Vâng, hãy dẹp thứ này đi,” bà nói vắn tắt, cắt ngang  điều mà bà đang nói với William Bankes để nói với người hầu gái. “Lần cuối tôi gặp bà ấy hẳn phái cách nay đến mười lăm, hai mươi năm,” bà nói, quay trở lại phía ông như thể bà không thể đánh mất một giây phút nào trong cuộc chuyện trò giữa họ, vì bà đang đắm chìm vào những điều họ đang nói. Thế là đêm nay ông ấy đã thật sự nghe thấy từ bà! Và Carrie có còn sống ở Marlow không, mọi thứ có còn như cũ hay không? Ôi, bà có thể nhớ mọi chuyện như thể nó vừa xảy ra hôm qua – đi trên bờ sông, cảm thấy rất lạnh. Nhưng nếu gia đình Mannings đã lên một kế hoạch thì họ sẽ thực hiện tới cùng. Bà không bao giờ quên việc Herbert giết một con tò vò bằng một cái muỗng cà phê trên bờ sông! Và nó vẫn tiếp diễn, bà Ramsay trầm tư, lướt qua như một bóng ma giữa những bàn ghế của căn phòng khách trên bờ sông Thames đó, nơi cách đây hai mươi năm bà đã cảm thấy rất lạnh; nhưng giờ thì bà đi giữa chúng như một bóng ma; và nó mê hoặc bà, như thể, trong khi bà đã thay đổi, cái ngày cụ thể ấy, giờ đây trở nên rất tĩnh lặng và xinh đẹp, vẫn còn ở đó, trong suốt bao nhiêu năm qua. Carrie có viết thư cho ông không? bà hỏi.
“Có. Bà ấy bảo họ đang xây một phòng chơi bi-a mới,” ông nói. Không! Không! Điều đó nằm ngoài vấn đề! Xây một phòng bi-a mới! Với bà, dường như chuyện đó không thể xảy ra.
Ông Bankes không thể hiểu có gì khác thường về điều đó. Giờ đây họ đã ở rất xa. Ông có nên trao tình yêu của bà ấy cho Carrie không?
“Ồ,” bà Ramsay nói với một cái giật mình khe khẽ, “Không,” bà nói thêm, ngẫm lại rằng bà đâu có biết bà Carrie, người đã xây một phòng bi-a mới. Nhưng lạ lùng biết bao, bà lặp lại, với sự thích thú của ông Bankes, nếu như họ vẫn tiếp tục ở đó một cách lặng lẽ. Vì thật là khác thường nếu nghĩ rằng họ có thể tiếp tục sống suốt bao nhiêu năm qua khi bà không hề nghĩ tới họ hơn một lần suốt quãng thời gian đó. Cuộc đời của chính bà đã có biết bao sự kiện trong cùng những năm tháng đó. Thế nhưng có lẽ Carrie Wanning cũng không nghĩ tới bà. Ý nghĩ này thật lạ lùng và khó chịu.
“Chẳng bao lâu mọi người đều tứ tán mỗi kẻ một phương,” ông Bankes nói, tuy nhiên ông lại cảm thấy hài lòng khi nghĩ rằng nói cho cùng ông biết cả gia đình Mannings lẫn gia đình Ramsay. Ông không hề trôi giạt, ông nghĩ, đặt cái muỗng xuống và chùi đôi môi đã cạo sạch râu một cách kỹ lưỡng. Nhưng có lẽ ông khá khác thường về điều này, ông nghĩ; ông chưa bao giờ cho phép bản thân rơi vào một nếp sống mòn. Ông có bạn bè trong mọi giới… tới đây bà Ramsay phá vỡ suy nghĩ của ông khi nói với người hầu gái một đôi câu về việc giữ nóng thức ăn. Đó là lý do vì sao ông thích ăn tối một mình hơn. Tất cả những vụ cắt ngang này làm ông thấy bực mình. Thôi được, William Bankes nghĩ, vẫn duy trì thái độ cực kỳ lịch sự và chỉ duỗi những ngón tay trái của mình ra trên tấm khăn trải bàn như một người thợ máy kiểm tra một món dụng cụ đã được lau chùi bóng loáng và sẵn sàng cho việc sử dụng trong lúc rảnh rỗi, những thái độ như thế là những sự hy sinh mà bạn hữu của một người đòi hỏi ở anh ta. Nếu ông khước từ không tới, ông sẽ làm tổn thương bà ấy. Nhưng việc này không đáng để ông phải bỏ công. Vừa nhìn bàn tay mình, ông vừa nghĩ rằng giá như ông ăn tối một mình, lúc này mọi chuyện đã xong xuôi; ông sẽ được tự do để làm việc. Phải, ông nghĩ, đây đúng là một sự lãng phí thời gian khủng khiếp. Lũ trẻ đang lặng thinh. “Mẹ ước gì một đứa trong số các con sẽ chạy lên phòng của Roger,” bà Ramsay đang nói. Tất cả những chuyện này thật là vặt vãnh, tất cả những chuyện này thật đáng chán, ông nghĩ, so sánh với một thứ khác – công việc. Ông phải ngồi ở đây gõ những ngón tay lên tấm khăn trải bàn khi lẽ ra ông đã có thể – ông điểm lại công việc của mình với cái nhìn trong chớp mắt của một con chim. Chắc chắn là tất cả những thứ này thật lãng phí thời gian! Phải, ông nghĩ, bà ấy là một trong những người bạn lâu năm nhất của mình. Mình đang dành thời gian cho bà ấy. Thế nhưng giờ đây, vào khoảnh khắc này, sự hiện diện của bà ấy đối với ông tuyệt đối không là gì cả: vẻ đẹp của bà ấy chẳng có ý nghĩa gì đối với ông; việc bà ngồi với đứa con trai bé bỏng ở chỗ cửa sổ – chẳng có ý nghĩa gì, chẳng có ý nghĩa gì. Ông chỉ ao ước được ở một mình và cầm cuốn sách đó lên. Ông cảm thấy khó chịu; ông cảm thấy mình phụ bạc khi ngồi bên cạnh bà ấy mà chẳng có cảm giác gì đối với bà ấy. Sự thật là ông không thích cuộc sống gia đình. Chính trong trạng thái này mà người ta phải tự hỏi mình, Người ta sống là vì cái gì? Vì sao, người ta tự hỏi mình, người ta lại phải gánh chịu mọi đau thương này để dòng giống loài người tiếp diễn? Điều đó có rất đáng ao ước hay không? Chúng ta có hấp dẫn không với tư cách là một loài? Không hấp dẫn cho lắm, ông nghĩ, nhìn vào những đứa con trai khá lôi thôi. Cam, con bé ông ưa thích nhất đã đi ngủ, ông cho là thế. Những câu hỏi ngốc nghếch, những câu hỏi rỗng tuếch, những câu hỏi mà người ta không bao giờ đưa ra nếu người ta đang bận tâm suy nghĩ. Đây có phải là cuộc sống của con người? Kia có phải là cuộc sống của con người? Người ta chẳng bao giờ có thời gian để suy nghĩ về nó. Nhưng ông đang ngồi đây tự hỏi mình cái loại câu hỏi đó, vì bà Ramsay đang đưa ra những chỉ thị cho những người giúp việc, và cũng vì ông thấy bị sốc khi nghĩ rằng bà Ramsay đã ngạc nhiên đến mức nào về việc Carrie Manning vẫn còn tồn tại, rằng những tình bằng hữu, ngay cả những tình bạn chí thân nhất, cũng chỉ là những điều mong manh tạm bợ. Người ta trôi giạt cách xa. Ông lại tự khiển trách mình. Ông đang ngồi cạnh bà Ramsay và ông chẳng có thứ quái gì trên đời để nói với bà ấy.
“Cho tôi xin lỗi,” bà Ramsay nói, cuối cùng cũng quay lại với ông. Ông cảm thấy mình cứng ngắc và khô khan, như một đôi ủng đã bị nhúng nước và đem phơi khô đến mức bạn gần như không thể đút chân vào được. Thế nhưng ông buộc phải ấn bằng được đôi bàn chân của mình vào chúng. Ông phải tự ép buộc bản thân trò chuyện. Trừ phi ông rất cẩn trọng, bà ấy sẽ phát hiện ra sự phụ bạc này của ông; rằng ông chẳng mảy may quan tâm gì tới bà ấy, và điều đó chẳng thú vị chút nào, ông nghĩ. Thế là ông nhã nhặn nghiêng đầu về phía bà.
“Hẳn ông phải ghét việc ăn tối trong cái vườn nhỏ này biết bao,” bà nói, sử dụng cung cách xã giao của mình, như bà vẫn hay làm những khi bị rối trí. Cũng giống như khi có một cuộc cãi cọ trong một buổi họp nào đó, để duy trì tình đoàn kết, vị chủ tọa sẽ đề nghị rằng mọi người nên phát biểu bằng tiếng Pháp. Có lẽ đây là thứ tiếng Pháp tồi; thứ tiếng Pháp không bao gồm những từ ngữ diễn tả được tư tưởng của người phát biểu; dù sao thì việc nói tiếng Pháp cũng bao hàm một thứ mệnh lệnh, một tính chất đồng nhất nào đó. Đáp lại bà với cùng một ngôn ngữ, ông Bankes nói, “Không, không hề có việc đó,” và Tansley, kẻ không có kiến thức nào về thứ ngôn ngữ này, ngay cả khi nói bằng những từ đơn âm, ngay lập tức nghi ngờ về sự chân thành của nó. Họ chuyên nói những điều phi lý, cái gia đình Ramsay này, anh nghĩ; và anh chộp ngay lấy cơ hội tươi rói này với sự hân hoan, ghi nó lại để một hôm nào đó trong những ngày này anh sẽ đọc toáng lên với một hai người bạn. Ở đó, trong một xã hội nơi người ta có thể nói ra thứ mà người ta thích, anh ta sẽ diễn tả một cách mỉa mai việc “sống với gia đình Ramsay và những điều phi lý họ đã nói”. Cũng đáng để thực hiện điều đó một lần, có thể nói thế; nhưng không lặp lại thêm lần nữa. Những người đàn bà làm người ta chán chết, anh sẽ nói thế. Dĩ nhiên ông Ramsay là kẻ “mèo mù vớ cá rán” khi cưới được một bà vợ xinh đẹp và có tám đứa con. Nó sẽ tự định hình nó theo cách nào đó, nhưng bây giờ, ngay lúc này, ngồi dính chặt ở đó với một ghế trống cạnh mình, chẳng có gì tự định hình nó cả. Tất cả chỉ là những mảnh, những phần rời rạc. Anh cảm thấy cực kỳ khó chịu, ngay cả về mặt thể chất. Anh muốn ai đó cho anh một cơ hội để tự khẳng định bản thân. Anh muốn điều đó một cách khẩn thiết đến nỗi anh ngồi bồn chồn không yên trong chiếc ghế, nhìn người này, ngó người kia, cố xen vào câu chuyện của họ, há mồm ra rồi lại ngậm mồm vào. Họ đang nói về nghề đánh cá. Vì sap không có ai hỏi ý kiến của anh? Họ thì biết gì về nghề đánh cá?
Lily Biricoe biết tất cả những điều đó. Ngồi đối diện với anh ta, làm sao cô có thể không nhìn thấy, như trong một tấm ảnh X quang, những xương sườn và xương ống chân của niềm khao khát gây ấn tượng của một thanh niên đang nằm khuất giữa lớp thịt của anh ta – cái màn sương mỏng mà truyền thống đã trải lên trên niềm khát khao cháy bỏng được xen vào cuộc trò chuyện của anh ta? Nhưng, cô nghĩ, đảo tròn đôi mắt Trung Hoa của mình, và nhớ lại anh ta đã nhạo báng những người phụ nữ ra sao, “không thể vẽ, không thể viết,” tại sao mình lại phải giúp anh ta giảm đi căng thẳng chứ?
Cô biết có một quy tắc đạo lý, mà điều thứ bảy trong số đó (có lẽ thế) nói rằng trong những trường hợp như thế này người phụ nữ, bất kể nghề nghiệp của cô ta là gì, có trách nhiệm đi tới và giúp đỡ cho chàng thanh niên đó, để anh ta có thể phơi bày và giải thoát cho những chiếc xương của lòng tự cao tự đại của anh ta, của niềm khát khao khẩn thiết được khẳng định bản thân của anh ta; vì thật sự việc giúp đỡ chúng ta mới chính là bổn phận của họ, nếu giả sử như chiếc tàu điện ngầm bị bốc cháy, cô ngẫm nghĩ, với sự công bằng của một phụ nữ luống tuổi còn trong trắng. Rồi cô lại nghĩ, hẳn nhiên mình chỉ nên mong rằng Tansley sẽ tống cổ mình đi. Nhưng sẽ ra sao, cô nghĩ, nếu không ai trong chúng tôi chịu làm những việc này? Thế là cô ngồi đó, mỉm cười.       
“Cô không định đi ra ngọn hải đăng đấy chứ, Lily?” bà Ramsay nói. “Tôi nhớ anh Langley tội nghiệp; anh ta đã đi vòng quanh thế giới hàng chục lần, nhưng anh ta bảo tôi anh ta chưa bao giờ đau khổ như khi chồng tôi đưa anh ta ra đó. Anh có phải là một thủy thủ giỏi không hở, anh Tansley?” bà hỏi.
Tansley giơ một cái búa lên: vung nó trong không khí; nhưng nhận ra, khi nó đã hạ xuống, rằng anh không thể đập con bướm đó với một dụng cụ như thế này, chỉ nói rằng anh ta chưa bao giờ ốm đau gì cả trong đời. Nhưng chỉ trong một câu nói đó đã cô nén hàm ý, như thuốc súng, rằng ông của anh là một ngư dân, cha của anh là một người bán dược phẩm; rằng anh hoàn toàn tự mình lập thân; rằng anh tự hào về điều đó; nhưng một ngày nào đó gần đây mọi người sẽ biết về nó. Anh quắc mắt nhìn ra phía trước. Gần như anh có thể thương hại cho những kẻ có học thức mỏng manh này, những kẻ sẽ bị thổi tung lên bầu trời cao, như những kiện len và những thùng táo bởi thứ thuốc súng nằm trong người anh, một ngày nào đó gần đây.
“Anh sẽ đưa tôi đi chứ, anh Tansley?” Lily nói, nhanh, chân thành, bởi lẽ, dĩ nhiên, nếu bà Ramsay nói với cô, như thực ra bà đã làm, “Bạn thân mến, tôi đang chìm vào những biển lửa. Trừ phi cô dùng thứ dầu xoa nào đó cho nỗi thống khổ trong giờ khắc này và nói một câu gì đó tốt đẹp với người thanh niên đó, cuộc đời sẽ trở nên vô vàn khó khăn – thật sự tôi đang nghe thấy tiếng thét gào ngay ở phút này. Những dây thần kinh của tôi đang căng lên như những sợi dây đàn. Chỉ một cái chạm nữa thôi nó sẽ đứt tung” – khi bà Ramsay nói tất cả những điều này, như nhãn quan của bà đã nói lên, dĩ nhiên Lily sẵn sàng từ bỏ dù cả trăm vạn lần cuộc thử nghiệm này – điều gì sẽ xảy ra nếu người ta không tốt với gã thanh niên ngồi đó – và tỏ ra tốt bụng.  
Đánh giá một cách đúng đắn sự xoay chuyển trong tâm trạng của cô – rằng giờ đây cô tỏ ra thân thiện với anh – anh vượt thoát khỏi sự ích kỷ của mình và bảo với cô hồi còn bé anh đã từng bị văng ra khỏi một chiếc thuyền như thế nào; cha anh đã kéo anh lên với một cái sào như thế nào; đó là cách mà anh đã học bơi. Một trong những ông chú của anh gác hải đăng trên một hòn đá ngoài khơi biển Tô Cách Lan, anh nói. Anh đã từng ở đó với ông ta trong một cơn bão. Anh nói to điều này trong một khoảnh khắc mọi người tạm dừng. Họ phải lắng nghe anh khi anh nói rằng anh đã ở đó, trong một ngọn hải đăng, trong một cơn bão. A, Lily Briscoe nghĩ, khi cuộc đàm luận đã chuyển sang chiều hướng tốt đẹp, và cô cảm nhận được lòng biết ơn của bà Ramsay (vì lúc này bà Ramsay được tự do trò chuyện một lúc cho chính mình), a, cô nghĩ, nhưng tôi đã không trả cái gì khi làm điều đó cho bà? Cô đã không thành thật.
Cô đã thực hiện trò lừa thường lệ – tỏ ra tốt bụng. Cô sẽ chẳng bao giờ biết được anh ta. Anh ta sẽ không bao giờ biết được cô. Tất cả những mối quan hệ người và người đều như thế cả, cô nghĩ, và mối quan hệ tệ hại nhất (nếu không phải đối với ông Bankes) là giữa đàn ông và đàn bà. Những mối quan hệ này không thể tránh  khỏi cực kỳ giả dối, cô nghĩ. Rồi ánh mắt cô bắt gặp cái lọ muối mà cô đã đặt ở đó để nhắc nhở cô, và cô nhớ rằng sáng mai cô sẽ dời cái cây ra xa hơn vào chính giữa, và tinh thần cô phấn chấn với ý nghĩ về việc vẽ tranh vào ngày mai đến mức cô cười phá lên với điều Tansley đang nói. Cứ để cho anh ta nói suốt đêm tùy thích.
“Nhưng người ta phái người tới canh một ngọn hải đăng trong bao lâu?” cô hỏi. Anh ta bảo cho cô biết. Anh ta hiểu biết nhiều một cách đáng ngạc nhiên. Và vì anh ta thấy biết ơn, vì anh ta thích cô, và vì anh ta bắt đầu thấy thú vị, bà Ramsay nghĩ bụng, giờ đây bà có thể quay trở lại với cõi mơ đó, nơi chốn không có thật nhưng rất thú vị đó, căn phòng khách của gia đình Manning hai mươi năm trước; nơi người ta đi lại với nhau mà không ghét bỏ hay bồn chồn lo lắng, vì không có tương lai nào để lo âu cả. Bà biết điều gì đã xảy ra với họ, điều gì đã xảy ra với bà. Nó cũng giống như việc đọc lại một quyển sách hay, vì bà đã biết kết cục của câu chuyện đó, vì nó đã xảy ra cách nay hai mươi năm, và cuộc sống lạc lõng rơi ngay từ chiếc bàn ăn giữa những bức màn này, đến nơi mà chỉ có trời biết, đã bị niêm phong ở đó, và nằm yên, như một cái hồ ở giữa những bờ của nó. Ông ta bảo họ đã xây một phòng bi-a – có thể nào như vậy hay không? Willliam có nói tiếp về vợ chồng nhà Manning hay không? Bà muốn ông ta nói tiếp. Nhưng, không – vì lý do nào đó ông ta không còn trong tâm trạng lúc nãy. Bà cố gắng. Ông ta không đáp lại. Bà không thể ép buộc ông ta. Bà thất vọng. 
“Lũ trẻ thật vô ơn,” bà nói, thở dài. Ông ta nói đôi điều về tính đúng giờ rằng đó là một trong những đức tính chủ yếu mà chúng ta không thể thủ đắc cho tới khi đã muộn màng trong đời.
“Nếu có,” bà Ramsay vui vẻ khỏa lấp chỗ trống, nghĩ rằng William đang trở thành một cô gái già mất rồi. Ý thức được sự phụ bạc của mình, ý thức được mong muốn trò chuyện về một thứ gì đó thân mật hơn của bà, thế nhưng lúc này đã ra khỏi tâm trạng đó, ông cảm thấy trong lòng tràn dâng một niềm bất mãn về cuộc sống, ngồi đó, chờ đợi. Có lẽ những người khác đang nói về điều gì đó thú vị chăng? Họ đang nói gì?
Rằng mùa đánh cá quá tệ; rằng những người đàn ông đang chuyển sang bãi khác. Họ đang nói về những khoản tiền lương và sự thất nghiệp. Gã thanh niên đang chửi bới chính quyền. Trong lúc đang nghĩ rằng giá như ông theo kịp một câu chuyện nào đó thuộc loại này thì thật là nhẹ nhõm khi cuộc sống riêng quá khó chịu, William Bankes nghe thấy anh ta nói điều gì đó về “một trong những hành vi tai tiếng nhất của chính phủ đương quyền.” Lily đang lắng nghe; bà Ramsay đang lắng nghe; tất cả bọn họ đang lắng nghe. Nhưng vốn đã chán ngán sẵn, Lily cảm thấy thiêu thiếu một điều gì đó. Kéo tấm khăn choàng quấn quanh người, bà Ramsay cảm thấy thiêu thiếu một điều gì đó. Tất cả những người đang cúi đầu lắng đều nghĩ bụng, “Cầu Trời cho những gì nằm trong đầu óc con không bị phơi bày,” vì mỗi người nghĩ, “Những người khác đang cảm thấy điều này. Họ nổi giận và căm phẫn chính quyền về việc những ngư dân. Trong khi đó tôi chẳng cảm thấy gì hết.” Nhưng có lẽ, ông Bankes vừa nghĩ vừa nhìn Tansley, đây là một trang nam tử hán. Người ta luôn mong đợi một trang nam tử hán. Luôn luôn có một cơ hội. Nhà lãnh tụ có thể nảy sinh vào bất cứ lúc nào; một con người có thiên tài, trong chính trị cũng như trong bất cứ lĩnh vực nào khác. Có lẽ anh ta sẽ cực kỳ bất mãn những kẻ hủ lậu chúng ta, ông Bankes nghĩ, những người đang cố hết sức mình để chiếu cố, vì anh ta biết nhờ vào một cảm giác vật chất lạ lùng nào đó, như của những dây thần kinh chạy trong xương sống anh ta, rằng anh ta ghen tị, một phần về chính bản thân, phần khác, có lẽ nhiều hơn, về công việc của anh ta, về quan điểm của anh ta, về khoa học của anh ta; và do đó anh ta không hoàn toàn cởi mở hay hoàn toàn công bằng, vì dường như anh ta đang nói, Các vị đã lãng phí cuộc đời mình. Các vị hoàn toàn sai lầm. Những kẻ cổ hủ khốn khổ, các vị đang vô vọng phía sau những thời gian. Có vẻ như anh ta khá kiêu ngạo, cái anh chàng trẻ tuổi này; và thái độ xử sự của anh ta rất kém. Nhưng ông Bankes buộc phải nhận xét, anh ta quả cảm; anh ta có năng lực; anh ta cực kỳ giỏi về những sự kiện. Có lẽ, ông Bankes nghĩ, khi Tansley chửi bới chính quyền, có rất nhiều điều trong những gì anh ta nói.
“Giờ xin nói cho tôi biết…” anh ta nói. Vậy là họ đang tranh luận về chính trị, và Lily nhìn chiếc lá trên tấm khăn trải bàn; và bà Ramsay, hoàn toàn giao phó cuộc tranh luận lại cho hai người đàn ông, tự hỏi vì sao bà quá chán ngán với cuộc chuyện trò này, và ao ước, khi nhìn chồng mình ở đầu kia bàn, rằng ông ấy sẽ nói một điều gì đó. Một lời thôi, bà tự nhủ. Vì nếu ông ấy nói một điều gì đó, nó sẽ làm mọi sự khác hẳn đi. Ông  ấy đi thẳng vào trung tâm sự vật. Ông ấy quan tâm tới những người ngư dân và thu nhập của họ. Ông ấy không ngủ được vì suy nghĩ về họ. Thật hoàn toàn khác hẳn khi ông ấy lên tiếng; khi đó người ta không cảm thấy, lạy Trời ông không nhìn thấy tôi ít quan tâm như thế nào, vì người ta quan tâm. Thế rồi, nhận ra đó là vì bà quá ngưỡng mộ ông đến nỗi mong đợi ông ấy lên tiếng, bà cảm thấy như thể ai đó đang ca tụng chồng bà và cuộc hôn nhân của họ với bà, và bà đỏ ửng cả mặt mày mà không nhận ra rằng chính bà là người đã ca tụng ông. Bà nhìn ông ấy đang trầm tư để tìm điều này trên nét mặt của ông; hẳn trông ông có vẻ cao quý… Nhưng không hề như thế! Ông đang nhăn nhó, ông đang quắc mắt cau mày, và đỏ mặt vì giận dữ. Vì cái quái gì chứ? bà tự hỏi. Vấn đề là gì vậy? Chỉ vì ông Augustus tội nghiệp đó đã yêu cầu thêm một đĩa xúp – chỉ thế thôi. Việc Augustus sẽ bắt đầu món xúp của ông ta lần nữa thật không thể tưởng tượng nổi, thật đáng ghét (ông Ramsay ra hiệu cho bà qua cái bàn). Ông ghét những người đang ăn khi ông đã ăn xong. Bà thấy cơn giận của ông bay như một đàn chó săn vào mắt ông, lông mày ông, và bà biết rằng chỉ trong giây lát một cái gì đó mang tính bạo lực sẽ bùng nổ, và rồi – tạ ơn Chúa! Bà thấy ông tự kềm chế và hãm phanh lại, và toàn bộ thân người ông dường như tóe ra những tia lửa chứ không phải những ngôn từ. Ông ngồi đó quắc mắt. Ông chẳng nói lời nào, ông đang ở dưới sự quan sát của bà. Cứ để bà cho ông nợ điều đó! Nhưng nói cho cùng vì sao Augustus khốn khổ không được yêu cầu một đĩa xúp khác? Ông ta chỉ đơn giản chạm vào cánh tay của Ellen và bảo:
“Ellen, xin vui lòng cho một dĩa xúp nữa,” và thế là ông Ramsay quắc mắt lên như vậy.
Và tại sao không? bà Ramsay hỏi gặng. Chắc chắn họ có thể mang thêm cho Augustus một dĩa xúp nếu ông ta muốn. Ông ghét những người phàm ăn tục uống, ông Ramsay cau mặt nhìn bà. Ông ghét bất cứ thứ gì kéo lê hàng nhiều giờ như thế này. Nhưng ông đã tự kềm chế, ông đang ở dưới sự quan sát của bà, dù cảnh tượng có vẻ đáng ghét. Nhưng tạo sao lại biểu lộ nó một cách rõ rệt như thế, bà Ramsay gặng hỏi (họ nhìn nhau qua cái bàn dài, gửi cho nhau những câu hỏi và câu đáp, mỗi người biết chính xác điều mà người kia cảm thấy). Mọi người có thể nhìn thấy, bà Ramsay nghĩ. Rose đang nhìn cha nó đăm đăm; Roger đang nhìn cha nó đăm đăm; trong giây lát nữa cả hai đứa sẽ ùa chạy khỏi phòng với những tràng cười rộ, bà biết, và vì thế bà nói ngay (thật sự đây là vấn đề thời gian):
“Hãy thắp mấy cây nến lên,” và chúng nó nhảy lên ngay lập tức, đi tới và mò mẫm tìm kiếm ở chiếc tủ búp-phê.
Vì sao ông ấy không bao giờ có thể che giấu những cảm xúc của mình? Bà Ramsay tự hỏi, và cũng tự hỏi không biết Augustus Carmichael có đế ý thấy hay không. Có lẽ ông ta đã nhận ra; cũng có lẽ ông ta không. Bà không thể không kính trọng sự điềm tĩnh của ông ta khi ông ta ngồi đó húp món xúp của mình. Nếu ông ta muốn xúp, ông ta yêu cầu xúp. Dù mọi người có cười chê hay nổi giận thì ông ta cũng vẫn là con người như thế. Ông ta không thích bà, bà biết điều đó; nhưng một phần chính vì lẽ đó mà bà kính trọng ông ta; bà nhìn ông ta húp xúp, rất to lớn và bình thản trong ánh sáng nhờ nhờ, có vẻ kỳ vĩ, và trầm mặc, bà tự hỏi ông đã cảm thấy thế nào lúc đó, và vì sao ông luôn luôn hài lòng và có phẩm cách cao quý; và bà nghĩ ông ta đã tận tâm thế nào với Andrew, thường gọi nó vào phòng của ông ta, còn Andrew bảo, “để cho ông ấy xem mấy thứ.” Và ông ta thường nằm đó suốt ngày trên bãi cỏ, có lẽ để nghiền ngẫm những bài thơ của mình, cho tới khi ông nhắc người ta nhớ tới một con mèo đang rình bắt chim, và rồi ông ta thu những cái vuốt của mình lại khi đã tìm thấy từ đó, và chồng bà bảo, “Già Augustus khốn khổ – ông ấy là thi nhân đích thực,” đó là một sự ca tụng hết lời từ chồng bà.
Bây giờ tám ngọn nến đã được cắm trên bàn, và sau cái rạp mình đầu tiên, những ngọn lửa dựng thẳng lên, kéo theo cùng với chúng toàn cảnh cái bàn dài, chính giữa là một đĩa trái cây vàng uôm và tím đỏ. Bà đã làm gì với nó nhỉ, bà Ramsay tự hỏi, vì việc Rose sắp xếp những quả nho và lê, những vỏ sò có sọc hồng giống như sừng, những quả chuối, khiến cho bà nghĩ tới một chiến lợi phẩm lấy lên từ đáy biển, tới những  bữa tiệc của Hải Vương thần, tới  nhánh nho rũ lá trên bờ vai của tửu thần Bacchus (trong một bức tranh nào đó), giữa những tấm da báo và những ngọn đuốc lấp loáng ánh vàng ánh đỏ… Dường như khi được đưa vào ánh sáng một cách đột ngột như thế nó có một kích thước và chiều sâu tuyệt diệu, giống như một thế giới mà trong đó người ta có thể cầm lấy cây quyền trượng của mình và trèo lên những ngọn đồi, bà nghĩ, rồi đi xuống những thung lũng, và với niềm vui sướng, bà thấy rằng cả Augustus cũng đang say sưa ngắm cái đĩa trái cây đó, phóng mắt vào đó, ve vuốt một nụ hoa nơi này, một dải tua nơi khác, rồi sau khi thưởng thức bữa tiệc ngon lại quay về cái tổ ong của ông ta. Đó là cách nhìn của ông ta, khác với cách của bà. Nhưng việc ngắm nhìn hợp nhất họ với nhau. 
Những ngọn nến giờ đã được thắp lên, và những gương mặt ở cả hai phía bàn được đưa lại gần hơn nhờ ánh nến, và tạo nên, không như trong ánh chiều chạng vạng, một bữa tiệc quanh một cái bàn, vì bóng đêm giờ đã bị khép lại bên ngoài bởi những tấm kính, mà, thay vì mang tới bất kỳ một quang cảnh xác thực nào của thế giới bên ngoài lại làm nó gợn lên lăn tăn một cách lạ lùng đến nỗi ở đây, bên trong căn phòng, dường như trở thành một vùng đất khô khan và trật tự; còn ở đó, phía bên ngoài, là một phản ảnh mà trong đó mọi thứ lăn tăn gợn sóng và tan biến mất, như nước.
Ngay lập tức một sự thay đổi nào đó lướt xuyên qua tất cả mọi người, như thể điều này đã thật sự xảy ra, và tất cả đều có ý thức về việc đang cùng nhau dự một bữa tiệc trong một thung lũng, một hòn đảo; có chính nghĩa chung để chống lại trạng thái thể lỏng ngoài kia. Bà Ramsay, người lúc nãy vẫn băn khoăn lo lắng khi chờ Paul và Minta vào và không thể ổn định mọi thứ, Lily Briscoe cảm nhận, giờ đây đã thấy sự lo lắng của bà biến thành sự chờ mong. Vì bây giờ họ phải bước vào, và cô cố phân tích nguyên nhân của niềm vui đột ngột đó, so sánh nó với thời điểm ở trên sân quần vợt, khi trạng thái vững chắc đột nhiên biến mất, và có những khoảng trống mênh mông nằm giữa họ; bây giờ ấn tượng đó lại xuất hiện bởi nhiều ngọn nến trong căn phòng không có nhiều đồ đạc, với những ô cửa sổ không màn che và cái vẻ sáng rực trông như đeo mặt nạ của những gương mặt được nhìn thấy bởi ánh nến. Một gánh nặng nào đó đã được trút khỏi họ; bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra, cô nghĩ.
Chúng phải đến bây giờ, bà Ramsay nghĩ, nhìn ra cửa, và ngay lúc đó Minta Doyle, Paul Rayley, và một người hầu bê một cái nồi lớn trên tay cùng bước vào. Họ đã muộn quá xá, họ đã muộn kinh khủng, Minta nói, khi đang tìm lối để tới hai đầu khác nhau của cái bàn.
“Tôi đánh mất cái trâm cài đầu – cái trâm của bà tôi,” Minta nói với giọng than van và đôi mắt to màu nâu của cô như long lanh ngấn nước, nhìn xuống, rồi lại ngẩng lên, khi cô ngồi xuống cạnh ông Ramsay, điều này khiến ông nổi máu hào hiệp, vì thế ông trêu cô.
Sao cô lại có thể khờ đến thế, ông hỏi, bò lê quanh những tảng đá mà lại còn đeo nữ trang?
Cô từng rất sợ ông – ông thông minh một cách đáng sợ, và đêm đầu tiên khi cô ngồi cạnh ông, ông nói về George Eliot[6], cô đã thật sự sợ hãi vì cô đã bỏ quên tập ba bộ truyện MIDDLEMARCH trong tàu hỏa và cô chưa bao giờ biết kết cục chuyện gì đã xảy ra; nhưng sau đó cô đã hòa nhập một cách hoàn hảo, và thậm chí còn tỏ vẻ dốt nát hơn thực tế, vì ông thích bảo cô rằng cô là một con bé ngốc. Và vì thế đêm nay, dù ông trực tiếp chế nhạo cô, cô không sợ hãi. Ngoài ra, cô biết, ngay khi cô bước vào phòng, rằng phép mầu đã xảy ra; cô đã khoác lên người màn sương mù óng vàng của mình. Đôi khi cô có nó; đôi khi không. Cô không bao giờ biết vì sao nó đến hay vì sao nó đi, hay cô có nó cho tới khi bước vào phòng hay không và rồi cô biết ngay lập tức bởi cái cách một người đàn ông nào đó nhìn cô. Vâng, đêm nay cô có nó, thật tuyệt vời; cô biết điều đó bởi cái cách ông Ramsay bảo cô không phải là một cô ngốc. Cô ngồi phía sau ông, mỉm cười.
Vậy hẳn là nó đã xảy ra, bà Ramsay nghĩ; chúng đã đính hôn. Và trong khoảnh khắc bà cảm thấy điều mà bà không bao giờ muốn cảm nhận lại thêm lần nữa – sự ghen tị. Vì ông ấy, chồng bà, cũng cảm nhận được nó – sự rạng rỡ của Minta; ông thích các cô gái này, những cô gái tóc đỏ hung óng ánh này, với một thứ gì đó bay bổng, một thứ gì đó hơi hoang dã và khinh suất ở họ, những kẻ không “tự cạo trọc đầu của họ”, không “èo uột”, như ông đã nói về Lily Briscoe tội nghiệp. Có một phẩm chất nào đó mà bà không có, một nét huy hoàng nào đó, một sự phong nhiêu nào đó, đã hấp dẫn ông, làm ông thích thú, khiến cho ông xem những cô gái như Minta là những cô gái đáng yêu nhất. Họ có thể cắt tóc cho ông, thắt bím cho ông, hay cắt ngang công việc của ông, réo gọi ông (bà đã nghe thấy), “Tới đây nào, ông Ramsay, bây giờ đã tới lượt chúng ta đập lại họ,” và ông đi ra để chơi quần vợt.
Nhưng thật ra bà không ghen, chỉ là, thỉnh thoảng, khi bà tự ép mình nhìn vào gương, một chút xíu bực bội rằng bà đã già đi, có lẽ, do lỗi của chính bà. (Tờ hóa đơn cho ngôi nhà kính và tất cả những thứ còn lại của nó.) Bà biết ơn họ vì đã chế giễu ông. (“Hôm nay ông đã hút mấy tẩu thuốc rồi, ông Ramsay?” vân vân), cho tới khi dường như ông trở thành một chàng trai trẻ; một người đàn ông rất hấp dẫn phụ nữ, không gánh nặng, không oằn vai xuống bởi sự vĩ đại của những công việc và những nỗi u sầu nhân thế, của danh vọng hay thất bại của ông, lại trở thành như lần đầu bà biết ông, gầy gò nhưng hào hoa phong nhã; giúp bà bước ra khỏi con thuyền, bà nhớ; với những cung cách vui tươi, như thế đó (bà nhìn ông, còn ông, trẻ trung một cách đáng kinh ngạc, đang trêu cợt Minta). Về phần bản thân bà – “Đặt nó xuống đó,” bà nói, giúp cô gái Thụy Sĩ nhẹ nhàng đặt cái nồi to màu nâu mà trong đó là món BOEUF EN DAUBE xuống trước mặt bà – về phần của chính bà, bà thích những con người vụng về khờ khạo của bà. Paul phải ngồi bên cạnh bà. Bà đã dành chỗ cho anh ta. Thật sự, đôi khi bà nghĩ bà thích nhất là những kẻ vụng về khờ khạo. Họ không quấy rầy người ta với những bài luận thuyết của mình. Họ đã nhớ biết bao, nói cho cùng, những người đàn ông rất thông minh này! Họ đã trở thành khô cứng, chắc chắn thế. Ở Paul, bà nghĩ khi anh ta ngồi xuống, có một cái gì đó rất đáng yêu. Cung cách xử sự của anh ta khiến cho bà vui dạ, và cái sống mũi gãy cùng đôi mắt sáng màu xanh lơ của anh ta nữa. Anh ta rất chu đáo. Anh ta có kể cho bà nghe – giờ đây khi tất cả lại đang trò chuyện – chuyện gì đã xảy ra hay không?
“Chúng tôi quay trở lại để tìm cái trâm của Minta,” anh ta nói, ngồi xuống cạnh bà. “Chúng tôi – thế là đủ. Bà biết từ sự nỗ lực, từ giọng nói cất cao của anh ta để vượt qua một từ ngữ khó khăn mà lần đầu tiên anh ta thốt ra, “Chúng tôi.” “Chúng tôi đã làm điều này, chúng tôi đã làm điều nọ.” Họ sẽ nói từ đó suốt cả đời mình, bà nghĩ, và một mùi thơm tinh tế của quả ô-liu, dầu và nước ép tỏa lên từ cái nồi lớn màu nâu khi Marthe, với một cái vung tay khẽ, nhấc cái nắp ra. Người đầu bếp đã mất tới ba ngày cho món ăn đó. Và bà phải thật cẩn thận, bà Ramsay vừa nghĩ vừa thọc sâu muỗng vào cái khối mềm mềm đó để chọn một cục thịt đặc biệt mềm cho William Bankes. Bà nhìn vào nồi, với cái thành nồi bóng loáng và cái khối hỗn hợp những cục thịt ngon lành màu vàng ruộm, nâu nâu, những chiếc lá nguyệt quế và rượu vang, và suy nghĩ. Món ăn này sẽ đón mừng cho sự kiện đó – một cảm giác lạ lùng dâng lên trong bà, vừa kỳ lạ vừa dịu êm, về việc đón mừng một lễ hội, như thể có hai cảm xúc đang trỗi dậy trong bà, một cảm giác sâu thăm thẳm – vì có gì  nghiêm túc hơn là tình yêu của một người đàn ông đối với một người phụ nữ, có gì trang trọng hơn, ấn tượng hơn, chứa đựng ở đáy sâu của nó những hạt mầm của cái chết; đồng thời, những kẻ tình nhân này, những người đang bước vào mắt lấp lánh đầy ảo tưởng này, phải được nhảy múa nô đùa với sự chế giễu, phải được trang trí bằng những vòng hoa.
“Đây là một thắng lợi,” ông Bankes nói, đặt con dao ăn xuống một lúc. Ông đã ăn một cách chăm chú, Nó thật nhiều mùi vị; nó thật mềm mại. Nó đã được nấu nướng một cách hoàn hảo. Làm thế nào bà có thể xoay xở được những thứ này trong những vùng quê hẻo lánh? ông hỏi bà. Bà là một phụ nữ tuyệt vời. Tất cả tình yêu của ông, tất cả lòng tôn kính của ông đã quay trở lại, và bà biết điều đó.
“Đây là một công thức nấu món ăn Pháp của bà tôi,” bà Ramsay đáp, với một tiếng chuông reo vui lớn lao trong giọng nói của bà. Tất nhiên nó là món ăn Pháp. Cái được truyền lại cho nghệ thuật nấu ăn ở nước Anh là một sự kinh tởm (họ đồng ý). Đó là bỏ bắp cải vào nước. Đó là nướng thịt cho tới khi nó giống như một miếng da. Đó là cắt bỏ những lớp vỏ ngon lành của các thứ rau củ. “Mà trong đó, “ông Bankes nói, “chất chứa tất cả những phẩm chất của rau củ.
Và sự lãng phí, bà Ramsay nói. Cả một gia đình Pháp có thể sống nhờ vào những gì một người đầu bếp Anh vứt bỏ. Được khích lệ bởi nhận thức rằng sự yêu mến của William đã quay về lại với bà, rằng mọi chuyện lại ổn thỏa, rằng trạng thái hồi hộp của bà đã qua đi, rằng giờ đây bà được tự do để vui mừng thắng lợi và để chế giễu, bà cười rộ, bà vung vẩy đôi tay, cho tới khi Lily nghĩ, Bà thật trẻ con, thật buồn cười biết bao, khi ngồi đó với tất cả vẻ đẹp đã khai hoa nở nhụy lại trong bà, nói về những lớp vỏ của các loại rau củ. Ở bà có một cái gì đó đáng sợ. Bà hấp dẫn không thể cưỡng lại. Cuối cùng bà luôn luôn thủ đắc được cung cách của riêng mình, Lily nghĩ. Bây giờ bà đã làm được chuyện này – Paul và Minta, người ta có thể giả định, đã đính hôn với nhau. Ông Bankes đang ăn tối ở đây. Bà gieo một thứ bùa mê lên tất cả bọn họ, bằng cách ước muốn, rất đơn giản, rất trực tiếp, và Lily đối chiếu sự phong phú này với sự nghèo nàn tinh thần của chính mình, cho rằng phần nào đó chính niềm tin (vì cả gương mặt bà sáng rỡ lên – dù trông không còn trẻ trung, trông bà vẫn rực rỡ) vào điều kỳ lạ này, điều kinh khủng này, đã khiến cho Paul Rapley, đang ngồi bên cạnh bà, chấn động cả toàn thân, thế nhưng lại  lơ đãng, mải mê, im lặng. Khi nói về những lớp vỏ của các loại rau củ, Lily cảm thấy, bà Ramsay đã tán dương điều đó, tôn sùng điều đó; bà giơ hai bàn tay của mình để sưởi ấm lòng họ, để bảo vệ nó, thế những sau khi đã gây ra mọi thứ này, vì lý do nào đó lại phá lên cười, đưa các nạn nhân của bà, Lily cảm thấy, đến bệ thờ. Bây giờ nó bao trùm lên cả cô – cái cảm xúc đó, sự rung động đó, của tình yêu. Cô cảm thấy một cách kín đáo mình đứng về phía Paul! Anh ta, tỏa sáng, bốc cháy; cô, cách biệt, nhạo báng; anh ta, gắn bó với sự phiêu lưu; cô, gắn bó với bờ biển; anh ta, dấn thân, khinh suất; cô  lẻ loi, bị bỏ rơi – và, sẵn sàng để khẩn nài một sự sẻ chia với tai họa của anh ta, nếu như nó là một tai họa, cô nói một cách e thẹn:
“Minta bị mất cây trâm cài khi nào?”
Anh ta mỉm một nụ cười tinh tế, được che đậy bởi ký ức, được nhuộm màu bởi những giấc mơ. Anh ta lắc đầu. “Trên bãi biển,” anh ta nói.
“Tôi sẽ đi tìm nó,” anh ta nói, “tôi sẽ thức dậy sớm.” Điều này được giữ kín đối với Minta, anh ta hạ thấp giọng, và hướng ánh mắt về phía cô gái ngồi, bên cạnh ông Ramsay, đang cười khúc khích.
Lily muốn khẳng nhận một cách mạnh bạo và mãnh liệt niềm khao khát được giúp đỡ anh ta của mình, nhìn thấy trước trong ánh bình minh trên bãi biển cô sẽ là người chộp lấy cái trâm nằm lấp ló cạnh một tảng đá ra sao, và do vậy tự bao gồm mình vào trong số những người thủy thủ và những kẻ phiêu lưu. Nhưng anh ta đáp lại đề xuất của cô như thế nào? Cô thật sự thốt lên với một cảm xúc mà cô ít khi để lộ ra, “Hãy cho tôi đi cùng với anh,” và anh ta phá lên cười. Anh ta muốn nói vâng hay là không? – có lẽ là cả hai. Nhưng đó không phải là ý của anh ta – nó chỉ là tiếng cười lạ lùng mà anh ta phát ra, như thể anh ta đã nói, Cứ tự quăng mình lên vách núi nếu cô thích, tôi không quan tâm. Anh ta chuyển sang gò má cô sức nóng của tình yêu, sự kinh khủng của nó, sự tàn ác của nó, sự khinh suất của nó. Nó làm cô đau điếng, và Lily, nhìn sang Minta, đang mê hoặc ông Ramsay ở đầu kia bàn, thấy nao núng với việc tự phơi mình ra trước những chiếc nanh này, và thấy biết ơn. Vì với bất kỳ giá nào, cô tự nhủ, ánh mắt bắt gặp cái lọ muối trên mẫu hoa, cô không cần phải kết hôn, tạ ơn trời đất: cô không cần phải thực hiện sự hạ thấp phẩm giá đó. Cô đã an toàn thoát khỏi trạng thái mất tự chủ đó. Cô sẽ dời cái cây ra xa hơn vào chính giữa.  
Đó là sự phức tạp của những sự vật. Vì điều đã xảy ra với cô, đặc biệt khi sống với gia đình Ramsay, là bị buộc phải cảm nhận một cách thô bạo hai điều trái ngược nhau trong cùng một lúc: đó là cái mà bạn cảm thấy, là một; đó là cái mà tôi cảm thấy, là điều còn lại, và rồi chúng đánh nhau trong tâm trí của cô, như bây giờ. Mối tình này đẹp đẽ và kích động đến nỗi tôi run lên khi tiếp cận nó, và đề xuất, hoàn toàn trái với thói quen của chính tôi, để đi tìm một cái trâm cài đầu trên một bãi biển; nó cũng là sự đam mê ngu xuẩn nhất, man rợ nhất trong những nỗi đam mê của con người, và biến một chàng trẻ tuổi đẹp trai với nét nhìn nghiêng như nét nhìn nghiêng của một viên ngọc quý (nét nhìn nghiêng của Paul rất thanh tú) thành một tên bắt nạt với một cái xà beng (anh ta vênh váo, anh ta xấc xược) trên đường phố Mile End. Phải, cô tự nhủ, từ thuở khai thiên lập địa những bài tụng ca tình yêu đã được hát lên; những vòng hoa chất thành đống và những đóa hoa hồng; và nếu bạn hỏi chín người trong số mười người họ sẽ bảo rằng họ không muốn gì hơn ngoài thứ này – tình yêu; trong khi những người phụ nữ, xét theo kinh nghiệm của chính cô, sẽ cảm thấy trong mọi lúc, Đây không phải là thứ mà tôi muốn; không có gì nhạt nhẽo, tầm thường và vô nhân đạo hơn điều này; thế nhưng nó cũng đẹp đẽ và cần thiết. Chà vậy thì, chà vậy thì? cô hỏi, vì lý do nào đó mong những người khác cùng tham gia vào cuộc tranh luận, như thể trong một cuộc tranh luận như thế này người ta tung ra tia chớp nhỏ rõ ràng chỉ kéo dài rất ngắn của riêng mình và để cho những người khác thực hiện nó tiếp. Vì thế cô quay lại lắng nghe những gì họ đang nói để xem họ có tung ra bất kỳ ánh sáng nào lên vấn đề tình yêu hay không.
“Vậy,” ông Ramsay nói, “có cái thứ chất lỏng đó mà người Anh gọi là cà phê.”
“Ồ, cà phê!” bà Ramsay nói. Nhưng đúng hơn nhiều đó là một vấn đề (bà đã hoàn toàn bị đánh thức, Lily có thể thấy, và nói rất dứt khoát) về bơ thật và sữa sạch. Với giọng nói trầm ấm và hùng hồn, bà miêu tả sự trái đạo lý của hệ thống chế biến bơ sữa Anh, và việc sữa được giao tại cửa trong tình trạng như thế nào, và sắp chứng minh những lời buộc tội của mình, vì bà đã đi vào vấn đề, thì tất cả mọi người quanh bàn phá lên cười, bắt đầu với Andrew ở giữa, như một ngọn lửa nhảy từ bụi kim tước này sang bụi khác; các con của bà cười; chồng bà cười; bà bị chế nhạo, lửa vây quanh, và buộc phải che chiếc mũ sắt của bà lại, tháo dỡ những khẩu pháo của bà xuống, và chỉ trả đũa bằng cách chỉ cho ông Ramsay thấy sự chế giễu và bông đùa của cả bàn như một ví dụ về những gì mà người ta sẽ gánh chịu nếu người ta tấn công vào những định kiến của công chúng Anh.
Tuy nhiên, bà nói một cách chủ tâm, vì bà đã nhận thấy rằng Lily, người đã giúp bà về vụ Tansley, đang nằm ngoài mọi việc, cô ta đã tự miễn trừ mình khỏi những người còn lại, “Dù sao thì Lily cũng đồng ý với tôi,” và do vậy đã lôi cô vào cuộc, hơi bối rối chút đỉnh, hơi giật mình chút đỉnh. (Vì cô đang suy ngẫm về tình yêu.) Cả hai người bọn họ đều nằm ngoài mọi việc, bà Ramsay đã nghĩ thế, cả Lily lẫn Charles Tansley. Cả hai đều khổ sở bởi sự sáng chói của hai người khác. Anh ta, rõ ràng là vậy, tự cảm thấy lạnh lẽo; không người phụ nữ nào nhìn vào anh ta khi Paul Rayley hiện diện trong phòng. Anh chàng tội nghiệp! Tuy nhiên, anh ta có bản luận án của mình, về tác động của ai đó lên một điều gì đó: anh ta có thể tự lo lấy bản thân. Với Lily thì khác hẳn. Cô nhòa đi dưới sự sáng chói của Minta; trở nên kín đáo hơn bao giờ hết, trong bộ váy xám nhỏ bé, với gương mặt nhăn nheo nhỏ bé và đôi mắt Trung Hoa nhỏ bé của mình. Mọi thứ ở cô đều rất nhỏ bé. Thế nhưng, bà Ramsay nghĩ, so sánh cô với Minta, khi bà kêu gọi sự trợ giúp của cô (vì Lily sẽ xác nhận cho bà rằng bà không nói về những chuyện bơ sữa nhiều bằng chồng bà nói về đôi ủng của ông – ông thường nói hàng giờ về đôi ủng của mình) trong số hai cô gái đó, Lily ở lứa tuổi ba mươi[7] sẽ là người trợ giúp tốt hơn. Trong con người Lily có một dòng tư tưởng nào đó; một ngọn lửa nào đó, một cái gì đó của riêng cô mà bà Ramsay thật sự rất thích, nhưng sẽ không gã đàn ông nào thích, bà e là vậy. Hiển nhiên là không, trừ phi đó là một người đàn ông lớn tuổi hơn nhiều, như William Bankes. Nhưng ông ấy quan tâm, vâng, đôi khi bà Ramsay nghĩ rằng ông ấy quan tâm, có lẽ là tới bà, từ khi vợ ông ấy qua đời. Dĩ nhiên là ông ấy không “yêu”; đó là một trong nhiều thứ tình cảm không thể phân loại được. Ồ, nhưng vô lý quá, bà nghĩ; William phải cưới Lily. Họ có quá nhiều điểm chung. Lily rất yêu thích các loài hoa. Cả hai người bọn họ đều lãnh đạm, xa cách và khá độc lập. Bà phải thu xếp cho họ cùng bước bên nhau trên một quãng đường dài.
Ngốc thật, bà đã bố trí họ ngồi đối diện nhau. Ngày mai điều đó sẽ được khắc phục. Nếu trời đẹp, họ sẽ đi picnic. Mọi thứ dường như đều khả dĩ. Mọi thứ dường như đều đúng. Ngay lúc này (nhưng điều này không thể kéo dài, bà nghĩ, tự tách ra khỏi khoảnh khắc trong lúc tất cả bọn họ đang trò chuyện về những chiếc ủng), ngay lúc này bà đã đạt tới sự an toàn; bà lơ lửng như một con chim ưng ngưng vỗ cánh; như một lá cờ bay phấp phới trong một nỗi hân hoan đang phủ ngập mọi sợi thần kinh của bà, tràn đầy và dịu ngọt, không chút ồn ào, khá trang nghiêm, vì nó trào dâng, bà nghĩ, nhìn tất cả đang ăn ở đó, từ người chồng và lũ con và các bằng hữu; tất cả những thứ đó đang trào dâng trong sự tĩnh lặng thẳm sâu này (bà đang giúp William Bankes múc thêm một mẩu thịt rất nhỏ, và nhìn vào chiều sâu của chiếc nồi đất) và giờ đây dường như không vì một lý do đặc biệt nào cả đang trụ lại đó như một làn khói, như một làn hơi cuộn thẳng lên phía trên, giữ cho họ an toàn cùng nhau. Không cần nói gì hết; không thể nói gì hết. Nó ở đó, quanh họ. Nó dự phần vào sự bất diệt, bà cảm thấy, cẩn thận giúp ông Bankes vớt một mẩu thịt đặc biệt mềm; vì trước đó trong buổi chiều bà đã từng cảm nhận về một điều khác hẳn; có một sự cố kết trong các sự vật, một sự vững bền, một cái gì đó, theo ý bà, vượt lên khỏi sự đổi thay, và tỏa sáng (bà liếc nhìn khung cửa sổ với những ánh phản chiếu gợn sóng lăn tăn) với bộ mặt lóng lánh, phù du, ma quái, như một viên hồng ngọc của nó, khiến đêm nay bà một lần nữa có lại cái cảm giác đã có trong ngày, về sự bình an, ngơi nghỉ. Trong những khoảnh khắc như thế này, bà nghĩ, điều đã được tạo ra sẽ tồn tại lâu dài.
“Vâng,” bà đảm bảo với William Bankes, “có nhiều cho tất cả mọi người.” (Món BOEUF EN DAUBE là một thắng lợi hoàn hảo.) Đây là nơi, bà cảm thấy, đặt chiếc muỗng xuống, mà người ta có thể di động tới lui hay ngơi nghỉ; có thể chờ đợi lắng nghe ngay lúc này; rồi có thể, như một con chim ưng đột ngột sà xuống từ cái tổ cao của nó, phô phang và chìm vào tràng cười rộ một cách dễ dàng, đặt toàn bộ sức nặng của bà vào điều mà ở đầu kia bàn chồng bà đang nói, về căn bậc hai của một ngàn hai trăm năm mươi ba. Dường như đó là con số trên chiếc đồng hồ đeo tay của ông.
Tất cả những thứ này có ý nghĩa gì? Cho tới ngày hôm nay bà chưa hề có một nhận thức nào. Một căn bậc hai? Đó là gì? Mấy đứa con trai của bà biết. Bà dựa vào chúng; về những lũy thừa ba và căn bậc hai; rằng đó là điều mà bây giờ họ đang nói; về Voltaire[8] và bà de Stael[9]; về tính cách của Napoleon, về hệ thống chiếm hữu đất đai của Pháp; về ngài Rosebery[10]; về quyển hồi ký của Creevey[11]: bà để cho nó nâng đỡ bà, duy trì bà, cái cơ cấu đáng ngưỡng mộ này của tri thức nam giới, nó chạy lên chạy xuống, băng ngang theo đường này lối khác, như những cái rầm sắt nối kết cái kết cấu đu đưa ấy và nâng đỡ toàn thế giới, khiến bà có thể tuyệt đối tin tưởng vào nó, thậm chí có thể ngắm nghiền mắt lại, như một đứa bé đang hé nhìn từ chiếc gối của nó vào vô số lớp lá của một cái cây. Rồi bà thức giấc. Nó vẫn đang được kiến tạo. William Bankes đang ca ngợi những cuốn tiểu thuyết Waverly[12].
Cứ mỗi sáu tháng ông lại đọc một cuốn trong số chúng, ông bảo. Và tại sao điều đó lại khiến cho Tansley nổi giận? Anh ta nhảy vào cuộc (tất cả, bà Ramsay nghĩ, là vì Prue không cư xử tốt với anh ta) và phản bác những cuốn tiểu thuyết Waverly khi anh ta chẳng biết gì về nó, không biết nó là cái thứ quái gì, bà Ramsay nghĩ, quan sát anh ta hơn là lắng nghe những gì anh ta nói, và tính cách này sẽ đi với anh ta cho tới khi anh ta nhận được chức giáo sư, hay lấy vợ, và vì vậy không cần phải luôn nói, “Tôi – tôi – tôi.” Vì đó là những gì mà anh ta chỉ trích ngài Walter tội nghiệp, hay có lẽ đó là Janes Austen[13], cũng chỉ thế thôi . “Tôi – tôi – tôi.” Anh ta đang nghĩ về chính mình và ấn tượng mà anh ta đang tạo ra, bà có thể nói thế bởi âm thanh trong giọng nói và những chỗ nhấn mạnh và sự khó chịu của anh ta. Thành công sẽ tốt cho anh ta. Dù sao, một lần nữa họ lại im lặng. Bây giờ bà không cần phải lắng nghe. Nó sẽ không kéo dài, bà biết, nhưng ở thời khắc này mắt bà tinh tường đến nỗi mỗi một trong số những người bọn họ dường như đi quanh chiếc bàn, hé lộ những suy nghĩ và cảm giác của họ, không cần chút nỗ lực nào, như một tia sáng luồn xuống mặt nước để cho những gợn sóng, những đám sậy trong lòng nước và những con cá tuế tự cân bằng lấy chúng, và con cá hồi im lặng đột nhiên sáng rực toàn thân, treo mình, run rẩy. Bà nhìn thấy họ như thế; bà nghe thấy họ; nhưng bất cứ những gì họ nói cũng đều có phẩm chất này, như thể những gì họ nói giống như cái khoảnh khắc của con cá hồi, khi, cùng lúc đó, người ta có thể nhìn thấy những gợn sóng và sỏi cuội, một thứ gì đó ở bên trái, một thứ gì đó ở bên phải; và toàn thể được gom lại với nhau; vì ngược lại trong đời sống thực tế bà sẽ chăng lưới và tách rời một điều khỏi những điều khác; bà sẽ nói bà thích những cuốn tiểu thuyết Waverly hoặc chưa từng đọc chúng; bà sẽ thôi thúc bản thân tiến tới; bây giờ bà không nói gì cả. Vào cái thời khắc này, bà ngưng nghỉ.
“Chà, nhưng bạn nghĩ nó sẽ tồn tại bao lâu?” ai đó nói. Như thể có những sợi râu của loài nhuyễn thể run run thò ra từ thân người bà, chặn lại một số câu nhất định, đưa chúng vào sự chú ý của bà. Đây là một trong số chúng. Bà đánh hơi được mối nguy hiểm đối với chồng mình. Một câu hỏi như thế, hầu như chắc chắn, sẽ dẫn tới việc một điều gì đó được thốt lên và nhắc cho chồng bà nhớ tới thất bại của chính mình. Ông sẽ còn được đọc bao lâu nữa – ông sẽ nghĩ tới điều đó ngay lập tức. William Bankes (người hoàn toàn thoát khỏi tất cả những thứ rỗng tuếch như thế) phá lên cười và nói rằng ông ta chẳng gán một ý nghĩa quan trọng nào cho các thay đổi về thời trang. Ai có thể nói được cái gì sẽ tồn tại – trong văn chương  hay thật ra trong bất cứ thứ gì khác?
“Chúng ta hãy cứ tận hưởng những thứ chúng ta đang thưởng thức. Dường như sự vẹn toàn của ông là hoàn toàn đáng ngưỡng mộ đối với bà Ramsay. Dường như ông ta không hề suy tư một phút giây nào, rằng, Nhưng điều này có ảnh hưởng thế nào tới tôi? Nhưng nếu bạn có một tính khí khác, phải được ca ngợi, phải được khuyến khích, tự nhiên bạn bắt đầu cảm thấy khó chịu (và bà biết ông Ramsay đang bắt đầu cảm thấy khó chịu); và muốn ai đó thốt lên, Ồ, nhưng tác phẩm của ông sẽ tồn tại, ông Ramsay ạ, hoặc một câu đại loại thế. Lúc này, ông bộc lộ sự khó chịu một cách rất rõ ràng khi nói, với đôi chút bực tức, rằng, dù sao đi nữa, Scott (hay là Shakespeare?) sẽ tồn tại trong suốt đời mình. Ông nói điều đó với vẻ bực dọc. Mọi người, bà nghĩ, đều cảm thấy hơi không thoải mái mà không biết vì sao. Thế rồi Minta Doyle, người có bản năng tốt đẹp, nói một cách tháu cáy, vô lý, rằng cô ta không tin rằng có bất cứ một ai thật sự thích đọc Shakespeare. Ông Ramsay dứt khoát bảo (nhưng tâm trí ông đã lại bỏ đi xa) rằng có rất ít người thích nó nhiều như họ nói. Nhưng, ông nói thêm, dù sao đi nữa cũng có một số vở kịch có phẩm chất đáng kể, và bà Ramsay thấy rằng dù sao thì mọi chuyện sẽ ổn ở thời điểm này; ông ấy sẽ cười chế giễu Minta, và cô ta, bà Ramsay thấy, nhận ra sự nôn nao cực độ của ông ấy về bản thân mình, và sẽ, theo cách riêng của cô, khi thấy rằng ông ấy được quan tâm tới, ca ngợi ông ấy, bằng cách này hay cách khác. Nhưng bà ước rằng điều đó sẽ là không cần thiết: có lẽ chính do lỗi của bà mà điều đó trở nên cần thiết. Dù sao thì lúc này bà được tự do để lắng nghe những gì Paul Rayley đang cố nói, về những cuốn sách mà người ta đã đọc khi còn bé. Chúng tồn tại, anh ta nói. Anh ta đã đọc một số tác phẩm của Tolstoi[14] ở trường. Có một cuốn anh ta luôn nhớ, nhưng anh ta đã quên mất cái tựa. Những cái tên Nga thật không thể nhớ nổi, bà Ramsay bảo. “Vronsky,” Paul nói. Anh ta nhớ nó vì anh ta luôn nghĩ rằng nó là một cái tên đẹp đối với một gã bất lương. “Vronsky,” bà Ramsay nói; “Ồ, ANNA KARENINA,” nhưng điều đó không đưa họ đi xa cho lắm; những cuốn sách không phải là sở trường của họ, nhưng tất cả đã rối tung lên, Tôi nói có đúng không nhỉ? Tôi có tạo được ấn tượng tốt không nhỉ? nói cho cùng, người ta biết nhiều về chính mình hơn là về Tolstoi, trong khi, điều Paul đã nói là về một sự kiện, đơn giản là vậy, không phải về bản thân anh ta, không gì khác. Như tất cả những người ngốc nghếch, anh ta có một chút khiêm tốn, một sự quan tâm tới điều mà bạn đang cảm nhận, ít ra đó là một trong những nét mà bà thấy hấp dẫn. Bây giờ anh ta đang suy nghĩ, không về bản thân anh ta hay về Tolstoi, mà là, bà có thấy lạnh hay không, bà có cảm thấy một cơn gió lùa, bà có muốn một quả lê không.
Không, bà nói, bà không muốn một quả lê. Thật sự bà đã theo dõi dĩa trái cây (mà không nhận ra điều đó) một cách ghen tị, hy vọng rằng sẽ không có ai sờ tới nó. Ánh mắt bà đã lướt qua lại giữa những đường cong và bóng đổ của mấy thứ trái cây, giữa màu tím phong phú của những quả nho phía dưới, rồi lại lướt lên cái chóp giống như sừng của cái vỏ sò, tạo thành một màu vàng ruộm nổi lên trên màu tím mọng, một nét cong nổi lên trên đường tròn, không hề biết vì sao bà lại nhìn như thế, hoặc vì sao mỗi lần bà làm như thế, bà cảm thấy càng lúc càng thanh thản; cho tới khi, ồ, thật đáng tiếc nếu họ làm điều đó – một bàn tay đưa ra, cầm lấy một quả lê, và phá hỏng toàn bộ mọi thứ. Bà nhìn Rose với niềm thông cảm. Bà nhìn Rose đang ngồi giữa Jasper và Prue. Thật lạ lùng khi một đứa trẻ lại làm được điều đó! 
Thật lạ lùng khi nhìn chúng ngồi đó, xếp thành hàng, lũ trẻ của bà, Jasper, Rose, Prue, Andrew, hầu như im lặng, nhưng có một câu chuyện đùa nào đó của riêng chúng đang tiếp diễn, bà đoán, từ đôi môi mấp máy của chúng. Đây là một cái gì đó hoàn toàn cách biệt với mọi thứ khác, một cái gì đó mà chúng tích trữ để cười to với nhau trong phòng chúng. Đó không phải là về cha của chúng, bà hy vọng. Không, bà nghĩ là không. Là điều gì vậy, bà tự hỏi, hơi buồn phiền, vì với bà dường như chúng sẽ cười rộ lên khi bà không có mặt ở đó. Có tất cả những thứ đang tích tụ phía sau những gương mặt khép kín, lặng lẽ như mặt nạ đó, vì chúng không hòa nhập một cách dễ dàng; chúng như những người quan sát, những giám định viên, hơi cao hơn hoặc tách biệt khỏi những người lớn. Nhưng khi nhìn Prue tối nay, bà thấy bây giờ điều này không hoàn toàn đúng về nó. Nó chỉ mới bắt đầu, mới chuyển động, mới đi xuống. Ánh nến nhạt nhòa rọi lên gương mặt nó, như thể tương phản lại sự rực rỡ của Minta, một sự kích động nào đó, một trạng thái dự phòng về hạnh phúc đã phản chiếu lại trong nó, như thể vầng thái dương ái tình của những người đàn ông và những người phụ nữ đang ló dạng từ mép tấm khăn trải bàn, và không hề biết đó là gì, Prue cúi người về phía nó và chào nó. Prue vẫn tiếp tục nhìn Minta, một cách e thẹn, nhưng tò mò, khiến bà Ramsay nhìn từ người này sang người kia và nói, thầm nhủ với Prue trong đầu, Một ngày nào đó con sẽ hạnh phúc như cô ấy. Con sẽ hạnh phúc hơn, bà nói thêm, vì con là con gái của mẹ, ý bà là thế; con gái của bà phải hạnh phúc hơn con gái của những người khác. Nhưng bữa tối đã qua. Đã tới lúc phải đi. Chúng chỉ chơi đùa với những thứ trong dĩa của chúng. Bà sẽ đợi cho tới khi chúng đã cười to với câu chuyện nào đó mà chồng bà đang kể. Ông ấy đang nói đùa với Minta về một con thú cưng. Rồi bà sẽ đứng lên.
Bà thích Charles Tansley, bà nghĩ, một cách đột ngột; bà thích kiểu cười to của anh ta. Bà thích anh ta vì đã nổi giận như thế với Paul và Minta. Bà thích sự ngượng nghịu lúng túng của anh ta. Nói rốt lại, ở chàng trai trẻ này có nhiều thứ. Còn Lily, bà nghĩ, đặt chiếc khăn ăn bên cạnh dĩa của mình, cô ta luôn có một câu chuyện vui nào đó của riêng mình. Người ta không bao giờ phải bận tâm về Lily. Bà chờ đợi. Bà nhét cái khăn ăn xuống dưới mép dĩa. Chà, giờ thì họ đã xong chưa nhỉ?  Không. Câu chuyện đó đã dẫn tới một câu chuyện khác. Đêm nay chồng bà đang trong tâm trạng hưng phấn, và mong muốn, bà đoán, làm hòa với ông già Carmichael sau vụ dĩa xúp, đã kéo ông ta lại gần, họ đang kể chuyện về một người nào đó mà cả hai đều biết ở trường đại học. Bà nhìn khung cửa sổ, nơi lúc này những ánh nến đã cháy sáng hơn khiến cho những tấm kính trở thành đen sẫm, và khi nhìn về phía bên ngoài đó, những giọng nói lọt đến tai bà một cách thật lạ lùng, như thể chúng là những giọng nói trong một buổi lễ ở nhà thờ, vì bà không nghe được những từ. Một tràng cười rộ lên và rồi một giọng nói (của Minta) trỗi lên đơn độc, nhắc cho bà nhớ tới những người đàn ông và những cậu bé đang hét to những từ Latin trong một buổi lễ ở một nhà thờ Chính thống giáo La Mã nào đó. Bà chờ đợi. Chồng bà lên tiếng. Ông ấy đang lặp lại một điều gì đó, và bà biết đó là thơ, nhờ vào nhịp điệu và sự rung động của những vui buồn trong giọng của ông:
Ra đây, trèo dốc khu vườn[15],
Hoa hồng thắm nở chập chờn bướm ong,
Ra nào, Luriana Lurilee.
Những từ đó (bà đang nhìn ra cửa sổ) nghe như thể chúng đang trôi nổi bập bềnh giống như những bông hoa trên mặt nước ngoài kia, cắt lìa khỏi tất cả bọn họ, như thể không có ai đọc chúng lên, mà là tự thân chúng đã bước vào cuộc hiện tồn.
Mọi cuộc đời [chúng ta] đã sống qua
Mọi cuộc đời sẽ la cà mai sau
Ngập tràn những bóng cây cao
Ngập tràn những lá thay màu thời gian.
Bà không biết chúng có nghĩa là gì, nhưng, giống như âm nhạc, những từ ngữ đó dường như được nói lên bằng chính giọng nói của bà, nằm bên ngoài bản thể của bà, đang thốt ra một cách rất dễ dàng và tự nhiên những gì đã diễn ra trong tâm trí bà suốt cả buổi chiều tối hôm nay trong lúc bà đã nói những điều khác hẳn. Bà biết, không cần phải nhìn quanh, rằng mọi người ngồi quanh bàn đang lắng nghe giọng nói ấy lên tiếng:
Ta tự hỏi, hỏi tự ta
Dường như em với hay là với em,
Lurinana, Lurilee
với cùng niềm an ủi và sự hân hoan mà bà đã có, như thể, cuối cùng đây là một điều để nói ra một cách tự nhiên, đây là giọng nói của chính họ đang thốt nên lời.
Nhưng giọng nói đã dừng. Bà nhìn quanh. Bà tự buộc mình đứng lên. Augustus Carmichael đã đứng lên và, vừa giữ chiếc khăn ăn của ông ta khiến nó trông giống như một cái váy trắng dài, ông vừa ngâm nga:
Các vì vương đế rảo qua,
Vó câu lướt thảm cỏ và đồng xanh,
Tuyết tùng, lá cọ xênh xang.
Lurianna, Lurilee
và khi bà đi ngang qua ông ta, ông ta khẽ xoay về phía bà lặp lại  những từ cuối:
Lurianna, Lurilee,
và cúi đầu chào bà như thể để tỏ lòng kính trọng. Không hề biết vì sao, bà cảm thấy rằng ông ta thích bà hơn bao giờ trước đó; và với một cảm giác khuây khỏa và biết ơn, bà đáp lại cái chào của ông và bước qua cánh cửa mà ông đang mở ra cho bà.
Bây giờ nhất thiết phải mang mọi thứ tiến xa thêm một bước nữa. Với đôi chân đặt trên thềm nhà, bà chờ đợi một lúc lâu hơn trong cái cảnh tượng đang biến mất dần ngay cả khi bà đang nhìn, và rồi, khi bà di chuyển, nắm lấy cánh tay của Minta và rời khỏi căn phòng, nó đã thay đổi; nó tự tạo cho nó một dáng hình khác hẳn; nó đã, bà biết, ngoái nhìn lại nó lần cuối, trở thành quá vãng.


18

Như thường lệ, Lily nghĩ. Luôn có điều gì đó phải được thực hiện vào đúng phóc thời điểm đó, một điều mà bà Ramsay đã quyết định vì những lý do của riêng bà rằng phải làm ngay lập tức, khi mọi người đang đứng quanh nói chuyện vui, như lúc này, không thể quyết định rằng họ có nên đi vào phòng hút thuốc, vào phòng khách hay là lên những căn gác áp mái hay chăng. Thế rồi người ta thấy bà Ramsay đứng đó, giữa cái đám ồn ào huyên náo này, đang tay khoác tay với Minta, chợt nhớ sực ra rằng, “Phải, giờ chính là thời điểm cho điều đó,” và thế là với vẻ bí mật bà bỏ đi ngay lập tức để làm điều gì đó một mình. Và ngay sau khi bà đi một cuộc tan rã diễn ra; họ vẫy tay chào nhau, đi theo những con đường khác nhau, ông Bankes khoác tay Charles Tansley và đi ra trước hiên nhà để kết thúc cuộc thảo luận chính trị họ đã bắt đầu trong bữa ăn tối, và do đó đã xoay chuyển hẳn toàn bộ thế cân bằng của buổi chiều hôm, khiến cho sức nặng rơi theo một chiều khác hẳn, như thể, Lily nghĩ, vừa nhìn họ đi vừa nghe thấy một đôi từ gì đó về chính sách của đảng Lao động, họ đã lên tới chỗ cầu thang và đang gánh vác những gánh nặng của mình; sự thay đổi từ thơ ca sang chính trị khiến cô sững sờ như thế; vậy là ông Bankes và Charles Tansley đã đi lên gác trong ánh đèn đơn độc. Bà ấy đi đâu, Lily tự hỏi, mà  nhanh thế? 
Trên thực tế bà chẳng chạy mà cũng chả vội vàng gì; thật sự bà đi khá chậm. Bà cảm thấy muốn đứng yên trong giây lát sau tất cả những câu chuyện cà riềng cà tỏi đó, và chọn lọc ra một điều riêng biệt; điều có ý nghĩa quan trọng nhất; để tách riêng nó ra, cách ly nó; xóa sạch khỏi nó mọi cảm xúc và những điều vặt vãnh, giữ nó như thế trước mặt bà, và mang nó vào một tòa án nơi những vị quan tòa áo đỏ mà bà đã dựng nên ngồi quanh để quyết định những điều này. Nó tốt hay là xấu, nó đúng hay là sai? Tất cả chúng ta sẽ đi tới đâu? vân vân. Thế rồi bà vươn thẳng người lên sau cú sốc đó, níu lấy những nhánh cây du ở mé ngoài để đứng vững tại vị trí của mình. Thế giới của bà đã đổi thay: họ rất yên lặng. Sự kiện này đã cho bà một nhận thức về sự chuyển động. Tất cả phải nằm trong vòng trật tự. Bà phải có quyền đó và quyền đó, bà nghĩ, chấp nhận một cách vô tình phẩm giá của sự lặng lẽ của cây du. Và giờ đây một lần nữa tầng cao của những nhánh du dâng lên (như mũi của một con tàu nhô lên trên một lượn sóng) khi có một cơn gió thổi ào qua. Trời lộng gió (bà đứng một lát để nhìn ra). Trời lộng gió khiến đôi lúc những chiếc lá quét sượt qua một vì sao, và chính bản thân những vì sao dường như cũng đang lay động, lung linh và cố tỏa sáng lập lòe giữa những rìa nhánh lá. Vâng, điều đó đã được thực hiện xong, đã hoàn tất; và giống như mọi thứ đã hoàn tất, trở nên nghiêm trang. Lúc này khi người ta nghĩ tới nó, gạt bỏ đi cuộc chuyện trò cà riềng cà tỏi và cảm xúc, dường như nó đã luôn là vậy, chỉ được biểu lộ ra vào lúc này và như thế đó, đẩy mọi thứ về trạng thái vững bền. Cho dù họ sống đến bao lâu, bà nghĩ, họ cũng sẽ tiếp tục quay trở lại với cái đêm này; vầng trăng này; cơn gió này; ngôi nhà này: và cả với bà nữa. Ý nghĩ này làm bà khoan khoái vì nó điểm đúng vào chỗ nhạy cảm nhất của bà, khi nghĩ trái tim của họ quanh co ngoắt ngoéo biết bao, bất kể họ sống bao lâu, bà cũng sẽ se sợi chỉ hồng; và này, và này, và này, bà nghĩ, bước lên cầu thang, cười lớn, nhưng một cách đáng yêu, với chiếc ghế sofa ở đầu cầu thang (của mẹ bà), với cái ghế xích đu (của cha bà); với tấm bản đồ quần đảo Hebrides. Tất cả những thứ đó sẽ hồi sinh trở lại trong cuộc đời của Paul và Minta; “vợ chồng nhà Rayley” bà thử nhẩm lại cái tên mới; và cảm nhận, với bàn tay đặt trên nắm đấm cửa phòng lũ trẻ, sự hòa đồng cảm giác với những người khác mà cảm xúc mang lại đó, như thể những bức vách tường trở nên mỏng manh đến nỗi trên thực tế tất cả chỉ cùng chung một dòng (đó là một cảm giác khuây khỏa và hạnh phúc), và những chiếc ghế, những cái bàn, những tấm bản đồ, là của bà, là của họ, của ai không phải là điều quan trọng, và Paul và Minta sẽ thực hiện nó khi bà đã chết.
Bà thận trọng xoay nắm đấm cửa để nó không kêu lên cọt kẹt, và bước vào, hơi mím nhẹ đôi môi, như để tự nhắc nhở rằng bà không được nói lớn tiếng. Nhưng ngay khi bước vào phòng bà nhận thấy, với sự bực mình, rằng sự thận trọng của bà là không cần thiết. Lũ trẻ chưa ngủ. Đây là điều đáng bực nhất. Mildred cần cẩn thận hơn. Kia là thằng James đang tỉnh rụi và con bé Cam đang ngồi thẳng đơ, còn Mildred thì đang rời khỏi giường với đôi chân trần, đã gần mười một giờ và tất cả vẫn đang chuyện gẫu. Có chuyện gì thế? Lại là cái xương sọ gớm ghiếc đó. Bà đã bảo Mildred mang nó đi, nhưng dĩ nhiên là Mildred đã quên béng đi rồi, và bây giờ con Cam lẫn thằng James đang tỉnh rụi như sáo, cãi cọ nhau, khi lẽ ra chúng đã phải ngủ từ nhiều giờ trước đó. Cái gì đã ám vào Edward khi gửi cho chúng cái xương sọ gớm ghiếc này vậy nhỉ? Bà thật ngốc khi cho phép chúng đóng đinh treo nó lên đó. Nó được treo lên rất nhanh, Mildred nói, và Cam không thể ngủ khi có nó trong phòng, còn thằng James thì hét lên nếu bà ta chạm vào nó.
Cam phải đi ngủ (Cam bảo cái xương sọ đó có những cái sừng to tướng) – phải đi ngủ và mơ tới những cung điện xinh đẹp, bà Ramsay vừa nói vừa ngồi xuống giường bên cạnh nó. Nó có thể nhìn thấy những cái sừng trong khắp phòng, Cam nói. Đúng thế. Ở bất cứ nơi nào họ để đèn (và James không thể ngủ nếu không có đèn) sẽ luôn có một cái bóng ở đâu đó.
“Nhưng, Cam à, con nghĩ xem, nó chỉ là một con heo già,” bà Ramsay nói, “một con heo đẹp màu đen giống như những con heo ở trang trại.” Nhưng Cam nghĩ cái xương sọ là một vật kinh khủng, cứ chìa sừng về phía nó từ khắp nơi trong phòng.
“Thôi được,” bà Ramsay nói, “chúng ta sẽ che nó lại.” Cả bọn theo dõi bà đi tới cái tủ ngăn, lần lượt mở nhanh những cái ngăn kéo, và khi không tìm được thứ gì khả dĩ, bà nhanh nhẹn tháo tấm khăn choàng của mình ra quấn quanh cái xương sọ, quấn quanh, quấn quanh, sau đó bà quay lại chỗ Cam, đặt đầu bà lên chiếc gối bên cạnh Cam và bảo rằng bây giờ trông cái sọ thật đáng yêu; những bà tiên sẽ yêu thích nó như thế nào; nó giống như một cái tổ chim; nó giống như một ngọn núi mà bà từng thấy ở nước ngoài, với những thung lũng, những bông hoa, những chiếc chuông reo lên lanh lảnh, những con chim hót líu lo, những con dê và linh dương nhỏ nhắn và… Bà có thể thấy những lời ngân nga trầm bổng của bà vang vọng trong lại trong tâm trí của Cam, và Cam lặp lại theo bà, rằng nó giống như một ngọn núi, một cái tổ chim, một khu vườn, có nhiều con linh dương nhỏ nhắn như thế nào, và đôi mắt nó mở ra, khép lại. Bà tiếp tục nói, đều đều hơn, ngân nga trầm bổng hơn, vô lý hơn, rằng nó phải khép mắt lại và ngủ và mơ về những ngọn núi, những thung lũng, và mọi vật đáng yêu như thế nào, bà bảo, chầm chậm ngẩng đầu lên và nói một cách máy móc hơn, cho tới khi bà ngồi thẳng lưng lên và thấy rằng Cam đã ngủ thiếp đi.
Bây giờ, bà nói khẽ, băng qua chỗ giường của James, cả nó cũng phải ngủ đi, vì, thấy không, cái sọ lợn lòi vẫn còn ở đó; họ đã không chạm vào nó; họ đã thực hiện điều mà James muốn; nó hoàn toàn không hề bị ai làm tổn thương ở đó. Thằng bé chắc chắn rằng cái sọ vẫn còn ở đó dưới tấm khăn choàng. Nhưng nó muốn hỏi bà thêm một điều. Ngày mai họ có đi ra ngọn hải đăng không?
Không, không phải ngày mai, nhưng sẽ sớm thôi, bà hứa với nó; nếu ngày mốt đẹp trời. Nó rất ngoan ngoãn. Nó nằm xuống. Bà kéo chăn trùm cho nó. Nhưng nó sẽ không bao giờ quên, bà biết, và bà thấy giận Charles Tansley và chồng bà, và tự giận bản thân, vì bà đã nâng cao những hy vọng của nó. Rồi khi đưa tay tìm tấm khăn choàng và nhớ ra rằng bà đã quấn nó quanh cái sọ lợn lòi, bà đứng lên, kéo cánh cửa sổ xuống vài phân, nghe tiếng gió, hít sâu một hơi cái không khí đêm man mác lạnh rất đỗi bình thường, lẩm bẩm chào Mildred và rời khỏi căn phòng, để cho cái chốt cửa chầm chậm luồn vào ổ khóa và đi ra ngoài.
Hy vọng anh ta sẽ không ném ầm những cuốn sách của mình xuống sàn nhà trên đầu bọn trẻ, bà nghĩ, vẫn còn bực mình khi nghĩ tới Charles Tansley. Vì không đứa nào trong số chúng ngủ ngon giấc cả; chúng là những đứa trẻ dễ bị kích động, và vì anh ta đã nói những điều như thế về ngọn hải đăng, với bà dường như anh ta sẽ vụng về quét cùi chỏ đánh đổ một chồng sách khỏi bàn ngay khi chúng vừa say ngủ. Vì bà cho rằng anh ta lên tầng trên để làm việc. Song trông anh ta quá cô quạnh; song bà cảm thấy nhẹ nhõm khi anh ta đi; song anh ta lại đáng ngưỡng mộ đối với chồng bà; song thái độ cư xử của anh ta cần được cải thiện; song bà thích tiếng cười của anh ta – nghĩ tới điều này, trong lúc đang xuống cầu thang, bà nhận ra rằng giờ đây bà có thể nhìn thấy vầng trăng qua cửa sổ cầu thang – vầng trăng trung thu vàng óng ả – và quay lại, và họ nhìn thấy bà, đang đứng bên trên họ trên cầu thang.  
“Đó là mẹ tôi,” Prue nghĩ. Vâng; Minta nên nhìn vào người; Paul nên nhìn vào người. Đó là chính bản thân sự vật, cô cảm thấy, như thể chỉ có duy nhất một người như thế trên đời; mẹ của cô. Và từ chỗ đã hoàn toàn trưởng thành, một khoảnh khắc trước đó, khi trò chuyện với những người khác, cô lại trở thành một đứa trẻ con, và những gì họ đang làm là một trò chơi, và mẹ cô sẽ ủng hộ hay coi thường trò chơi đó, cô tự hỏi. Cho rằng đây là một cơ hội để Minta, Paul và Lily nhìn thấy bà, cảm thấy việc có bà là một vận may đặc biệt biết bao, và cảm thấy cô sẽ không bao giờ trưởng thành và không bao giờ rời khỏi mái nhà ra sao, cô nói, như một đứa trẻ, “Chúng con đã nghĩ tới việc đi xuống chỗ bãi biển để ngắm những lượn sóng.”
Ngay tức khắc, không vì lý do nào cả, bà Ramsay trở nên giống như một cô gái tuổi đôi mươi, đầy vẻ vui tươi nhí nhảnh. Một tâm trạng say sưa đột nhiên choán ngập trong bà. Tất nhiên họ phải đi, bà kêu lên, cười to; và nhanh nhẹn chạy xuống mấy bậc thang cuối, bà bắt đầu quay từ người này sang người khác, cười to, kéo đôi cánh tay của Minta choàng quanh người bà và bảo rằng bà chỉ ước gì bà cũng có thể đi cùng, và họ có về trễ lắm hay không, có ai trong số họ có đồng hồ hay không?
“Vâng, Paul có,” Minta nói. Paul rút một cái đồng hồ bằng vàng xinh đẹp ra khỏi một cái bao da linh dương nhỏ để khoe với bà. Và khi đưa nó ra trước mặt bà, anh ta cảm thấy, “Bà ấy biết hết mọi chuyện. Mình không cần nói gì cả.” Anh ta vừa khoe cái đồng hồ vừa nói với bà, “Tôi đã thực hiện chuyện đó rồi, bà Ramsay ạ. Tôi chịu ơn bà về tất cả những chuyện đó.” Và khi nhìn cái đồng hồ vàng nằm trong bàn tay anh ta, bà Ramsay cảm thấy, Minta thật cực kỳ may mắn biết bao! Cô ta sắp lấy một người đàn ông có một cái đồng hồ bằng vàng đựng trong một cái túi da linh dương!
“Ước gì tôi có thể đi với các cháu!” bà kêu lên. Nhưng bà bị ngăn lại bởi một điều gì đó mạnh mẽ đến nỗi bà không bao giờ nghĩ tới việc tự hỏi rằng đó là gì. Dĩ nhiên là bà không thể nào đi với họ. Nhưng bà rất muốn đi, nếu như không có chuyện khác, và buồn cười với sự ngớ ngẩn trong ý nghĩ của mình (thật may mắn biết bao khi lấy một người đàn ông có một cái túi da linh dương để đựng một cái đồng hồ) bà đi vào một căn phòng khác, nơi chồng bà đang ngồi đọc sách, với một nụ cười mỉm trên môi.       


19

Dĩ nhiên, bà tự nhủ khi bước vào phòng, bà phải tới đây để đạt được một điều mà bà muốn. Trước hết bà muốn ngồi xuống một cái ghế riêng biệt bên dưới một ngọn đèn riêng biệt. Nhưng bà còn muốn một cái gì hơn thế nữa, dù bà không biết, không thể nghĩ ra điều bà muốn là gì. Bà nhìn chồng mình (vừa giơ chiếc tất lên và bắt đầu đan), và thấy rằng ông không muốn bị cắt ngang – đó là điều rất rõ ràng. Ông đang đọc một cuốn sách nào đó khiến ông xúc động rất nhiều. Ông hơi nhếch miệng cười và bà biết rằng ông đang kiểm soát cảm xúc của mình. Ông lật vội các trang sách. Ông đang diễn lại nó – có lẽ ông đang nghĩ bản thân mình là nhân vật trong cuốn sách. Bà tự hỏi đó là cuốn gì. Ồ, bà thấy đó là một trong những cuốn của ông già Walter, bà điều chỉnh lại bóng của ngọn đèn để ánh sáng rọi xuống chiếc tất đang đan. Vì Charles Tansley từng nói rằng (trông như thể bà đang mong đợi nghe thấy tiếng những cuốn sách rơi đánh sầm trên sàn nhà bên trên), từng nói rằng mọi người không còn đọc Scott nữa. Lúc đó chồng bà nghĩ, “Đó là điều mà họ sẽ nói về tôi;” vì thế ông đi tìm một trong mấy cuốn sách đó. Và nếu ông đi tới kết luận “Điều đó đúng” về những gì Tansley nói, ông sẽ chấp nhận ý kiến đó về Scott. (Bà có thể thấy rằng ông đang cân nhắc, suy xét, đối chiếu điều này với cuốn sách ông đang đọc.) Nhưng không phải là về bản thân ông ấy. Ông luôn luôn không thoải mái với bản thân. Điều đó khiến bà thấy khổ sở. Ông luôn luôn lo lắng về những cuốn sách của mình – người ta có đọc chúng không, chúng có hay không, vì sao chúng không thể hay hơn, mọi người nghĩ gì về tôi? Không thích nghĩ về ông như thế, và tự hỏi nếu họ đã mời khách ăn tối thì tại sao ông lại bực bội khi họ nói về danh vọng và sự tồn tại của những cuốn sách, tự hỏi không biết lũ trẻ có chế giễu điều đó hay không, bà kéo mạnh chiếc tất, và mọi nét chạm đẹp đẽ như được tỉa tót từ những dụng cụ bằng thép hiện ra quanh đôi môi và vầng trán của bà, và bà trở nên thinh lặng như một thân cây đã bị quăng quật và run rẩy và giờ đây, khi gió đã ngưng, từng chiếc lá một lại trở nên tĩnh tại.
Dù đó có là bất cứ điều gì thì cũng không quan trọng, bà nghĩ. Một người đàn ông vĩ đại, một cuốn sách vĩ đại, danh vọng – ai có thể nói được? Bà chẳng biết mô tê gì về việc đó. Nhưng đó là cái cách của ông ấy với chính ông ấy, sự chân thật của ông ấy – chẳng hạn trong bữa ăn tối bà đã suy nghĩ một cách hoàn toàn bản năng, Giá mà ông ấy nói! Bà hoàn toàn tin tưởng vào ông ấy. Và gạt bỏ tất cả những thứ này, như một người lặn xuống và lướt qua khi thì một túm rong, khi thì một cọng rơm, khi thì một bọt nước, bà lại cảm thấy, trong lúc ngày càng chìm sâu xuống, như bà đã cảm thấy trong sảnh khi những người khác đang trò chuyện, Có một điều gì đó mà tôi muốn – một điều gì đó mà tôi đã tới để nhận lấy, và bà cảm thấy ngày càng xuống sâu hơn, hoàn toàn không biết đó là gì, với đôi mắt nhắm nghiền. Bà đợi một lát, vừa đan vừa tự hỏi, và một cách chậm rãi, những ngôn từ mà họ đã ngâm nga trong bữa ăn tối hiện lên, “Hoa hồng thắm nở chập chờn bướm ong,” bắt đầu trôi giạt từ phía này sang phía kia tâm trí của bà một cách nhịp nhàng, và khi chúng trôi giạt bềnh bồng, những ngôn từ đó, như những ngọn đèn nhỏ tỏa bóng, một đỏ, một xanh trời, một vàng, thắp sáng bóng tối trong tâm trí bà, và dường như rời khỏi nơi trú ngụ của chúng ở đó để bay ngang qua, ngang qua, hoặc để hét to lên và được vang vọng lại; thế là bà quay lại và sờ tay lên chiếc bàn bên cạnh để tìm một cuốn sách.
Mọi cuộc đời đã sống qua
Mọi cuộc đời sẽ la cà mai sau
Ngập tràn những bóng cây cao
Ngập tràn những lá thay màu thời gian,
bà lẩm bẩm, cài đôi kim đan vào chiếc tất. Rồi bà mở cuốn sách ra và bắt đầu đọc rải rác đó đây, và trong lúc làm như thế, bà cảm thấy như đang trèo lui, trèo tới, di động dưới những cánh hoa uốn mình bên trên bà, khiến bà chỉ biết đây là màu trắng hay đây là màu đỏ. Thoạt tiên bà không biết những từ ngữ đó có ý nghĩa gì hết.
Hướng về đây, hỡi mọi thủy thủ bị dập vùi tơi tả,
hãy hướng về đây những mảnh ván thông mọc cánh của các chàng,[16]
bà đọc và lật sang trang, thân hình khẽ lắc lư, quanh qua lộn lại ở chỗ nọ chỗ kia, từ dòng này sang dòng khác, như từ một nhánh cây này sang nhánh khác, từ một bông hoa màu đỏ và trắng sang một bông hoa khác, cho tới khi một âm thanh nhỏ đánh thức bà – tiếng chồng bà vỗ đùi. Ánh mắt họ gặp nhau trong một giây; nhưng họ không muốn nói với nhau. Họ không có gì để nói, tuy nhiên dường như có một điều gì đó đã chuyển dịch từ ông ấy sang bà. Chính là cuộc sống, là sức mạnh của nó, là sự hài hước tột cùng, bà biết, đã khiến cho ông ấy phải vỗ đùi. Đừng cắt ngang tôi, dường như ông ấy đang nói, đừng nói gì hết; cứ ngồi yên đó. Và ông tiếp tục đọc. Đôi môi ông mấp máy. Nó phủ đầy ông. Nó củng cố ông. Ông đã quên sạch tất cả những xích mích, những bực mình bé nhỏ ban tối, rằng ông đã chán không thể tả thế nào khi phải ngồi yên trong lúc mọi người cứ ăn uống như không bao giờ kết thúc, rằng ông rất bực vợ mình, rất giận và phiền lòng khi họ làm ngơ những cuốn sách của ông như thể chúng không hề tồn tại. Nhưng giờ đây, ông cảm thấy, chẳng có chi là quan trọng việc ai đã đạt tới mẫu tự Z (nếu tư tưởng chạy như một bảng chữ cái từ A đến Z). Một người nào đó sẽ đạt tới nó – nếu không phải là ông, thì sẽ là một người khác. Sức mạnh và sự minh mẫn của người đàn ông này, cảm giác của ông ta đối với những điều đơn giản trực tiếp, những người ngư dân này, sinh vật già nua khốn khổ bị phát cuồng trong căn nhà tranh của Mucklebackit[17] khiến ông có cảm giác cường tráng, nhẹ nhõm đến nỗi ông cảm thấy mình đã thức tỉnh và chiến thắng và không thể ngăn được đôi dòng lệ. Giơ cuốn sách lên cao hơn một chút để che mặt lại, ông để cho chúng thoải mái tuôn rơi và lắc đầu từ bên này sang bên kia, hoàn toàn quên đi bản thân (nhưng không quên một hoặc hai phản ánh về đạo lý và những cuốn tiểu thuyết Pháp và tiểu thuyết Anh và đôi bàn tay của Scott bị trói chặt nhưng cái nhìn của ông có lẽ cũng chân xác như cái nhìn của người khác), hoàn toàn quên đi những mối bận tâm và thất bại của riêng ông với việc Steenie tội nghiệp bị chết chìm và nỗi u sầu của Mucklebackit (Scott đã đạt tới chỗ hay nhất của mình ở đó), với niềm hân hoan lạ lùng và cảm giác tràn trề sinh lực mà nó mang tới cho ông.
Được, cứ để họ cải thiện dựa trên điều đó, ông nghĩ khi kết thúc chương sách. Ông cảm thấy như đã tranh luận với một người nào đó, và đã thắng thế. Họ không thể cải thiện dựa trên điều đó, bất kể họ có nói gì đi nữa; và vị trí của riêng ông càng trở nên an toàn hơn. Những tình nhân là những thứ vớ vẩn, ông nghĩ, một lần nữa thu thập toàn bộ mọi thứ trong tâm trí lại. Đó là thứ vớ vẩn, đó là loại hạng nhất, ông nghĩ, đặt điều nọ cạnh điều kia. Nhưng ông phải đọc lại nó một lần nữa. Ông không thể nhớ toàn bộ hình dáng của các sự vật đó. Ông phải tạm hoãn lại sự phán xét của mình. Vì thế ông quay sang ý nghĩ khác – nếu những gã thanh niên không quan tâm tới tác giả này, lẽ tự nhiên họ cũng chẳng quan tâm chi tới ông. Người ta không nên than phiền, ông Ramsay nghĩ, cố dập tắt niềm khao khát được than phiền với vợ ông rằng những gã thanh niên không ngưỡng mộ ông. Nhưng ông đã xác định; ông sẽ không làm phiền bà nữa. Tới đây ông nhìn bà đọc sách. Trông bà rất bình an, đang đọc. Ông thích nghĩ rằng mọi người đã đi khỏi hết và chỉ còn lại một mình ông với bà. Tổng thể của cuộc đời không cốt ở việc lên giường với một người đàn bà, ông nghĩ, quay lại với Scott và Balzac, với tiểu thuyết Anh và tiểu thuyết Pháp.
Bà Ramsay ngẩng đầu lên, và, như một người đang trong một giấc ngủ vật vờ, dường như muốn nói rằng nếu ông muốn bà thức giấc thì bà sẽ thức, sẽ thật sự thức, nhưng nếu không, có lẽ bà sẽ ngủ tiếp, chỉ thêm một chút nữa, chỉ thêm một chút nữa? bà đang trèo lên những nhánh cây kia, theo cách này cách khác, đặt tay vào một đóa hoa này rồi vào đóa khác.
Cũng không ca tụng màu đỏ như son của hoa hồng,[18]
Bà đọc, và vừa đọc bà vừa trèo lên, bà cảm thấy, tới tận ngọn, tới tận đỉnh. Thật mãn nguyện biết bao! Thật thư thái biết bao! Tất cả những chuyện tầm thường nhỏ mọn của ngày hôm đó đã bị hút chặt vào khối nam châm này; tâm trí bà cảm thấy trong lành, thanh sạch. Và nó kia rồi, toàn vẹn một cách bất ngờ; bà giữ nó trong đôi bàn tay, đẹp đẽ và hữu lý, trong trẻo và toàn vẹn, đây – bài thơ sonnet.
Nhưng bà cũng nhận thấy chồng bà đang nhìn bà. Ông ấy đang mỉm cười với bà, một cách giễu cợt, như thể ông đang chế nhạo bà một cách nhẹ nhàng về việc ngủ gật trong ánh ngày rộng mở, nhưng cùng lúc đó ông đang thầm nghĩ, Cứ đọc tiếp đi. Bây giờ  bà không có vẻ buồn bã nữa, ông nghĩ. Và ông tự hỏi, bà đang đọc cái gì, và phóng đại sự thiếu hiểu biết, sự giản dị của bà lên, vì ông thích nghĩ rằng bà không thông minh, không có chút kiến thức sách vở nào. Ông tự hỏi không biết bà có hiểu những gì mình đang đọc hay không. Có lẽ không, ông nghĩ. Bà xinh đẹp lạ lùng. Dường như với ông vẻ đẹp của bà đang tăng lên, nếu điều đó có thể xảy ra.
Nhưng trời đông dường thinh lặng, và em xa khuất
Ta đã đùa vui với những điều này như với bóng hình em,[19]
bà kết thúc. 
Sao hả?” bà nói, mơ màng vọng lại nụ cười của ông, ngẩng lên từ cuốn sách.
Ta đã đùa vui với những điều này như với bóng hình em,
bà lẩm bẩm, đặt cuốn sách lên bàn.   
Chuyện gì đã xảy ra, bà tự hỏi khi cầm món đồ đan lên, kể từ lúc bà nhìn thấy ông ngồi một mình? Bà nhớ tới việc trang điểm; và việc nhìn thấy vầng trăng; Andrew đã đưa dĩa của nó lên quá cao trong bữa ăn; nỗi phiền muộn bởi điều William đã nói; những con quạ trên mấy thân cây; cái ghế sofa ở đầu cầu thang; lũ trẻ còn thức; Chalres Tansely đang đánh thức chúng với việc đánh rơi sách của anh ta – ồ, không, bà đã tự tưởng tượng ra điều đó; và việc Paul có một cái túi da linh dương để dựng đồng hồ. Bà sẽ nói chuyện nào với ông đây? 
“Họ đã đính hôn,” bà nói, bắt đầu đan, “Paul và Minta.”
“Tôi cũng đoán thế,” ông nói. Không có gì nhiều để nói về chuyện đó. Tâm trí ông vẫn đang di động lên xuống, lên rồi lại xuống với bài thơ; ông vẫn còn cảm thấy rất cường tráng, rất quả quyết, sau khi đọc về đám tang của Steenie. Vì thế họ ngồi im lặng. Rồi bà bắt đầu nhận thức rằng bà muốn ông nói một điều gì đó.
Bất cứ điều gì, bất cứ điều gì, bà nghĩ, tiếp tục đan. Bất cứ điều gì cũng tốt.
“Thật tuyệt biết bao khi lấy một người đàn ông có một cái túi da linh dương để đựng cái đồng hồ của anh ta,” bà nói, vì đó là kiểu nói đùa mà họ đã có cùng nhau.
Ông khịt mũi. Ông cảm nhận về cuộc đính hôn này cũng giống như ông luôn cảm nhận về bất cứ một cuộc đính hôn nào; cô gái có vẻ tốt quá mức đối với chàng thanh niên đó. Dần dà, một ý nghĩ hiện ra trong đầu bà, vì sao người ta lại muốn mọi người lấy nhau? Giá trị, ý nghĩa của mọi sự là gì? (Mỗi từ họ nói bây giờ hẳn sẽ là đúng) Hãy nói một điều gì đó đi, bà nghĩ, chỉ mong nghe thấy giọng nói của ông ấy. Vì cái bóng đó, cái đang phủ kín lấy họ đã bắt đầu, bà cảm thấy, tiến tới gần quanh bà một lần nữa. Hãy nói bất cứ điều gì, bà khẩn khoản, nhìn ông ấy, như thể cầu xin giúp đỡ.
Ông im lặng, kéo tới kéo lui cái chốt trên sợi dây đồng hồ, nghĩ về những cuốn tiểu thuyết của Scott và của Balzac. Nhưng xuyên qua những bức vách hoàng hôn của sự thân mật của họ, vì họ đang nhích lại gần nhau, một cách bất giác, đến cạnh nhau, rất gần, bà có thể cảm thấy tâm trí của ông ấy như một bàn tay giơ lên che khuất đi tâm trí của bà; và bây giờ những ý nghĩ của bà đã chuyển sang trạng thái bồn chồn mà ông ấy không thích – “sự bi quan” như ông ấy gọi – dù ông ấy không nói gì, chỉ đưa tay lên trán, hất một lọn tóc lên, rồi để cho nó rơi xuống lại.
“Bà sẽ không hoàn tất được đôi vớ đó trong đêm nay,” ông ấy nói, chỉ tay vào chiếc tất. Đó là điều mà bà mong muốn – sự nghiêm khắc trong giọng ông ấy như có ý quở trách bà. Nếu ông ấy nói rằng có thái độ bi quan là sai thì có lẽ nó sai, bà nghĩ; cuộc hôn nhân đó rốt cục sẽ ổn thỏa.
“Không,” bà đáp, trải chiếc tất ra trên đôi đầu gối của mình, “Tôi sẽ hoàn thành nó.”
Và rồi gì nữa? Vì bà cảm thấy rằng ông ấy vẫn đang nhìn bà, nhưng cái nhìn của ông đã biến đổi. Ông ấy muốn một điều gì đó – muốn cái điều mà bà luôn thấy khó mà cho ông ấy được; muốn bà nói rằng bà yêu ông ấy. Không, bà không thể thực hiện điều đó được. Ông ấy tìm ra cái để chuyện trò dễ dàng hơn bà nhiều. Ông ấy có thể nói về nhiều thứ – bà không bao giờ có thể. Vì thế, tự nhiên là ông ấy luôn luôn nói về mọi thứ, và rồi vì một nguyên do nào đó ông ấy chợt nhận ra điều này, và sẽ trách móc bà. Ông ấy gọi bà là một phụ nữ vô tâm; bà chẳng bao giờ nói với ông ấy rằng bà yêu ông ấy. Nhưng chuyện không phải như vậy – không phải như vậy. Chỉ là vì bà không bao giờ có thể nói điều mà bà cảm thấy. Có phải trên áo ông ấy không có một vụn bánh nào không? Có phải bà không thể làm điều gì cho ông ấy? Bà nhổm dậy, đứng bên cạnh cửa sổ với chiếc tất màu nâu đỏ trong tay, phần để quay mặt đi khỏi ông ấy, phần vì bà chợt nhớ ra biển về đêm thường đẹp thế nào. Nhưng bà biết rằng ông ấy cũng đã quay đầu lại khi bà quay đi; ông ấy đang ngắm nhìn bà. Bà biết rằng ông ấy đang nghĩ bụng, Em xinh đẹp hơn bao giờ hết. Và bà tự cảm thấy mình xinh đẹp. Em sẽ nói với tôi dù chỉ một lần rằng em yêu tôi chứ? Ông ấy đang nghĩ điều đó, vì ông ấy đã bị đánh thức, về những gì với Minta và những cuốn sách của ông ấy, và vào cuối ngày họ đã cãi nhau về việc ra ngọn hải đăng. Nhưng bà không thể làm điều đó; bà không thể nói câu đó. Thế là, biết rằng ông ấy đang nhìn mình, thay vì nói bất cứ điều gì bà quay lại,  giơ món đồ đang đan lên, và nhìn ông. Và khi nhìn ông bà bắt đầu mỉm cười; vì dù bà không hề nói một lời nào, ông ấy biết, tất nhiên là ông ấy biết, rằng bà yêu ông ấy. Ông ấy không thể chối bỏ điều đó. Và bà mỉm cười nhìn ra phía ngoài cửa sổ và nói (vừa tự nhủ với mình, Không có gì trên đời có thể sánh với niềm hạnh phúc này) – “Vâng, ông nói đúng. Ngày mai trời sẽ ẩm ướt. Ông sẽ không đi được.” Và bà nhìn ông mỉm cười. Vì một lần nữa bà lại chiến thắng. Bà không nói ra điều đó: thế nhưng ông ấy biết.

(Hết Phần Khung cửa sổ - Vì điều kiện hợp đồng, tạm thời chưa thể post tiếp 2 phần còn lại của truyện. Mong các bạn thông cảm.)







[1] Ngày thứ Sáu ngay trước lễ Phục sinh
[2] Michelangelo di Lodovico Buonarroti Simoni  (1475 – 1564) thường gọi tắt là Michelangelo, nghệ sĩ người Ý đa tài (kiến trúc sư, họa sĩ, điêu khắc gia, thi sĩ, kỹ sư).
[3] Giotto di Bondone (1267 - 1337), thường được gọi tắt là Giotto, họa sĩ và kiến trúc sư người Ý.
[4] Tiziano Vecelli  hoặc Tiziano Vecellio (1473/1490 – 1576) thường  gọi là  Titian, họa sĩ Ý, dẫn đầu trường phái  Venetian của phong trào Phục hưng Ý.
[5] Charles Robert Darwin (1809 – 1882) nhà tự nhiên học người Anh, tác giả  Học thuyết Tiến hóa.

[6] Bút hiệu của Mary Anne Evans (1819 - 1980), tiểu thuyết gia Anh.


[7] Trong nguyên tác là “ở lứa tuổi bốn mươi” (at forty), nhưng theo người dịch có lẽ ở đây tác giả có sự sơ sót, vì ở Chương 9–Phần Một, tác giả đã cho chúng ta biết rằng Lily 33 tuổi, và ở Chương 1–Phần Ba, (10 năm sau) tuổi của Lily là bốn mươi bốn. Vì vậy, lứa tuổi ba mươi mới thật sự phù hợp.
[8] Tên thật là François-Marie Arouet (16941778), nhà văn, triết gia Pháp.
[9] Anne Louise Germaine de Staël-Holstein (1766 – 1817) thường gọi là Madame de Staël, nữ văn sĩ Pháp gốc Thụy Sĩ sinh sống ở Paris.
[10] Archibald Philip Primrose (1847 – 1929): Thủ tướng Anh, còn gọi là Archibald Primrose (1847–1851) và Lord Dalmeny (1851–1868).
[11] Thomas Creevey (1768 – 1838) chính trị gia Anh.
[12] Loạt tiểu thuyết lịch sử của văn hào Walter Scott (1771-1832)
[13] Jane Austen (1775 – 1817) nữ tiểu thuyết gia Anh.
[14] Lev Nikolayevich Tolstoy (1828 – 1910) đại văn hào Nga.
[15] Đây là những câu  thơ trích từ bài “Luriana Lurilee” của Charles Isaac Elton (18391900), luật gia, chính trị gia, nhà khảo cổ người Anh. Bài thơ này được xuất bản lần đầu vào năm 1945, 18 năm sau khi Virginia Woolf viết To the Lighthouse (1927). (Ở đây, người dịch xin phép chỉ tạm dịch mấy câu thơ trên dựa vào ý chính để thể hiện tốt nhất ngữ cảnh của đoạn này, thể lục bát được lựa chọn vì âm điệu du dương dễ nghe của nó phù hợp với các miêu tả liên quan của nữ văn sĩ Virginia Woolf .)

[16] Câu thơ mở đầu bài “Sirens’ Song” (Bài hát của những mỹ nhân ngư)  của nhà thơ Anh William Browne (1591-1643).
[17] Nhân vật trong tiểu thuyết The Antiquary (Nhà khảo cổ) của thi văn hào Tô Cách Lan Walter Scott  (1771 – 1832).
[18] Trong “Sonnet 98” của thi hào kiêm kịch tác gia Anh William Shakespeare (1564-1616)
[19] Trong “Sonnet 98” của thi hào kiêm kịch tác gia Anh William Shakespeare (1564-1616)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét