Xujun Eberlein chào
đời ở thành phố Trùng Khánh, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, sang Mỹ năm 1988. Sau
khi nhận bằng Tiến sĩ Khoa Kỹ sư Dân dụng từ
học viện MIT vào năm 1995, cô gia nhập một công ty công nghệ cao. Vào
mùa lễ Tạ ơn 2003, cô từ bỏ thuật toán để tập trung vào viết lách. Từ đó, cô đã
đoạt nhiều giải thưởng văn học. Truyện ngắn và tiểu luận của cô đã được xuất
bản ở Mỹ, Canada, Anh, Kenya và Hồng Kông, trong những tạp chí như AGNI, Walrus, PRISM International,
StoryQuarterly, Stand and Kwani. Tuyển tập truyện ngắn đầu tay Apologies
Forthcoming (Những lời xin lỗi sắp tới) đoạt giải 3 Tartt Fiction Award
2007 và được xuất bản tháng 6/2008. Hiện cô sống với chồng và con gái ở Massachusetts. Bạn đọc
có thể tìm hiểu thêm về Xujun tại http://www.xujuneberlein.com.
Bóng tòa cao ốc đã ngã từ tây sang đông.
“George sẽ tới muộn chút ít,” người phỏng vấn, một phụ nữ
Cáp-ca cao hơn Wei Dong nửa cái đầu nói. Mặt trời tháng Mười rọi qua cửa sổ của
cái văn phòng nằm trên tầng tám trong Quảng trường Công nghệ, kế học viện MIT.
Wei Dong ngã người thoải mái trên chiếc ghế. Không giống như cảnh một người xin
việc mới toanh đang trình bày một câu hỏi giáo khoa mà cũng chẳng giống cảnh
một cư dân đại lục không ngần ngừ nằm mai phục một gã người Hoa trên con đường
của hắn hôm nay. Với tư cách một cựu lập trình viên phần mềm, trong mười ba năm
qua anh đã đổi công ty tới bảy lần, mỗi lần lại lên một vị trí thách thức hơn
hoặc được trả lương cao hơn – cho tới lần cuối cùng này, khi anh, cùng toàn bộ
nhóm R&D của mình, bị tinh giản biên chế. Giỏi phỏng vấn như anh, trong cơn
suy thoái kinh tế này, anh vẫn thấy sợ việc tiếp xúc với một người đồng hương
đã từng trải qua sóng gió của cuộc Cách mạng Văn hóa. “Người Hoa chúng ta là
một dĩa cát lỏng,” có lần anh đã lầm bầm với vợ mình sau khi bị một gã đồng
hương người Hoa chơi xấu sau lưng. Và một khi bạn đã bị rắn cắn, bạn có thể
giật nảy người vì những sợi dây bện bằng rơm suốt ba năm.
“Anh ở vùng nào của Trung Quốc?” Người phụ nữ hỏi.
“Tứ Xuyên.” Anh nhắc tên tỉnh, nhưng không nói tới thành
phố của mình. Nếu anh nói Trùng Khánh, anh sẽ phải khua môi múa mỏ khá nhiều để
giải thích. Dường như ở đây không ai biết Trùng Khánh cả, dù nó từng là thủ đô
của Trung Hoa hồi thời Nhật xâm chiếm.
“Tôi biết Tứ Xuyên,” người phụ nữ bảo, “”thức ăn rất nhiều
gia vị!”
“Đúng vậy,” Wei Dong nhã nhặn gật đầu. Ở Mỹ, cái ấn tượng
duy nhất về quê hương xinh đẹp và đau thương của anh là thức ăn.
“Thức ăn nhiều gia vị và không có những thứ bánh gấp có
chữ bên trong,” anh nói thêm.
“Đó là điều mà George nói. Anh biết đó, George cũng là…”
Có tiếng gõ cửa, một cái đầu tóc đen nhánh ló vào. “Vừa
nhắc tới Tào Tháo…,” người đàn bà mỉm cười. “Đây là Kỹ sư trưởng của chúng tôi,
George Zhang.” Wei Dong đứng lên trong khi tim anh chìm xuống với lời giới
thiệu. Người phụ nữ này, như hầu hết mọi người Mỹ, không thể phát âm đúng chữ Z
của Trung Hoa. Nhưng điều đó chỉ làm nổi bật thêm vấn đề thật sự: chỉ một người
Hoa đại lục mới có thể có cái họ như thế. Ở Đài Loan hay Hồng Kông, cái họ đó
được đọc là “Chang”. Người đàn ông thấp lùn ở cửa cũng trạc tuổi của Wei Dong,
cũng một nước da vàng – anh ta là loại người Hoa gì mà lại dùng một cái tên
ngoại quốc thế nhỉ? Không ngờ gì, anh chàng này có khả năng xóa sạch mọi cơ hội
của anh.
Người thực hiện phỏng vấn mới cầm bản lý lịch của Wei Dong
trong tay. Anh ta ngắm kỹ nét mặt của Wei Dong, buộc anh phải gật khẽ đầu. Sự
ngắm nghía này quá căng thẳng đối với một cuộc phỏng vấn. Một cảm giác sợ sệt
chạy dọc khắp thân thể Wei Dong, và anh giật mình khi nghe Zhang kêu lên: “Wei
Dong! Đúng là anh rồi! Anh nhớ tôi không?” Anh ta vẫy vẫy bản lý lịch của Wei
Dong như thể nó là một vật chứng.
Wei Dong hơi nheo mắt
lại, cái nhìn của anh dán vào gương mặt bình thường và năng động của
Zhang trong giây lát. Rồi anh lắc đầu. “Xin lỗi, không.” Cả hai đều nói tiếng
Anh, và Wei Dong phát hiện ra một chất giọng miền Nam, như giọng của chính anh, trong
những lời của người kia.
Zhang thì thầm với người phụ nữ, bà ta liên tục gật đầu.
Wei Dong không thể nhận ra anh ta nói gì, và sự thân mật của Zhang với một phụ
nữ da trắng khiến anh khó chịu. Tâm trạng tốt đã vỡ tan. Việc một người khẳng
định đã từng biết anh không phải là một điềm lành.
Zhang đưa Wei Dong ra khỏi phòng phòng vấn, dẫn anh tới
văn phòng của mình. Anh ta dừng lại giữa đường và hỏi lại, “Anh thật sự không
nhớ tôi sao?” Lần này anh ta nói tiếng Hoa.
“Xin lỗi, tôi vẫn không nhớ ra. Chúng ta biết nhau ở đâu?”
Wei Dong đáp, cũng bằng tiếng Hoa. Nghe có vẻ buồn cười khi anh nói “xin lỗi”
bằng tiếng Hoa, vì nó không phải là một cách thể hiện dùng trong hội thoại hàng
ngày ở quê nhà anh. Sự thất vọng thoáng qua nét mặt của Zhang và anh ta thở
dài, triết lý. “Tôi không ngạc nhiên. Người ta chỉ nhớ cái mà người ta muốn
nhớ.”
Lúc này anh ta phát âm theo giọng Trùng Khánh.
“Anh qua Mỹ hồi nào?” Wei Dong hỏi, vừa tò mò vừa cảnh
giác.
“Anh muốn biết à? Nào, chúng ta hãy tới một tiệm ăn Tứ
Xuyên và làm một ly! Được không?” Sự nồng nhiệt của anh ta đúng kiểu Trùng
Khánh điển hình, một tính cách nảy sinh từ những quả ớt cay nồng và những mùa
đông xám khắc nghiệt. Sự nồng nhiệt đó tác động tới Wei Dong. Đã lâu anh không
có bạn nhậu, và uống mà không có bạn hiền và mồi nhậu Tứ Xuyên thì có gì là vui
thú.
“Cuộc phỏng vấn của tôi thế nào?”
“Anh đã đậu! Tôi là người phỏng vấn cuối cùng.” Zhang đáp.
‘Chúng ta đi đâu đây?”
“Dĩ nhiên là Phố Tàu, trừ khi anh muốn ăn thức ăn Trung
Hoa giả hiệu.”
Họ leo vào chiếc Camry vàng của Zang và chạy dọc theo con
sông Charles. Thật may, có một chỗ đậu xe trên một con phố nhỏ gần ga South Station,
giao lộ giữa tàu hỏa và xe buýt ở Boston.
Họ đi bộ dọc theo phố Kneeland. Gần đầu dốc của xa lộ Mass Pike có một người
đàn ông thấp bè để râu, mặc áo thun, đang vẫy một tấm bảng các tông ghi chữ với
những chiếc xe chạy ngang qua: “NHẬN LÀM CỬU VẠN.”
“Anh nhìn gì vậy?” Zhang hỏi.
Wei Dong đang nhìn một tòa nhà năm tầng ở bên kia giao lộ.
Phố Tàu không phải là một địa điểm thân thiện và hấp dẫn đối với anh; anh chỉ
tới đây khi vợ anh cần những thứ rau quả bản địa mà cô không tìm thấy trong
siêu thị. Nhưng tòa nhà này là một ngoại lệ. Trên cái mái bằng của nó, người ta
có thể nhìn thấy một cái nhà rạp cột đỏ, lợp ngói màu xanh lá với tám mái hiên
de ra. Anh luôn nhìn nó khi tới đây; nó khiến cho anh nhớ quê hương. Ở Tứ Xuyên
kiểu nhà rạp này rất phổ biến dù không bao giờ chúng nằm trên nóc một tòa nhà.
Anh đã nghĩ tới việc tự mình cất một cái nhà rạp như thế trong mảnh sân của
ngôi nhà mới của mình, nhưng đó là trước khi anh bị giảm biên chế. Bây giờ anh
không biết liệu anh có thể trả tiền thế chấp hay không nữa.
Hôm nay, có một thứ khác lọt vào mắt anh. Ở mé nam tòa
nhà, đối diện với đầu dốc đường cao tốc Mass Pike, những hàng chữ “Chào mừng
tới Phố Tàu” đã bị che lại bởi một tấm biểu ngữ dài bằng lụa đỏ đang bay phấp
phới trong ngọn gió thu. Trên tấm biểu ngữ là những từ bằng tiếng Hoa lẫn tiếng
Anh:
THƯỢNG ĐẾ PHÙ TRỢ NƯỚC MỸ
Trước ngày 11-9, ở đó không có tấm biểu ngữ này. Wei Dong
nhìn chăm chú dòng chữ Hoa. Khác với dòng chữ tiếng Anh, mà dường như hơi tự
mãn, những từ tiếng Hoa van cầu sự ban phúc và bảo vệ. Một cái gì đó ấm áp trào
lên cổ họng anh. Zhang nhìn theo ánh mắt anh. Họ im lặng trong giây lát, rồi
tiếp tục bước đi.
Mùi vịt quay, dầu hào và cá tươi tỏa lan khắp những con
phố đông đúc. Zhang đưa Wei Dong vào một tiệm ăn tên là “Cựu Tứ Xuyên,” chiều
nay nó hơi vắng. Mùi gừng và hành tươi át đi những mùi ở bên ngoài. Chủ tiệm,
một cô gái trẻ, tỏ ra biết Zhang. “Ngọn gió lành nào đưa anh tới đây vậy?” cô
ta nói bằng tiếng quan thoại, cố làm cho nó nghe giống như giọng Tứ Xuyên, và
khéo léo bày lên bàn những cái tấm vải lót dĩa có hình hoàng đạo cho hai người.
“Anh muốn uống gì, anh Zhang?” cô gái ngọt ngào hỏi.
“Rượu Mao Đài Quý Châu! Cô có chứ?”
“Anh ăn mừng gì vậy hả anh Zhang?” cô gái lắm lời hỏi. Wei
Dong hơi nhíu mày: một chai rượu Mao Đài chỉ có thể khui trong một dịp quan
trọng.
“Hôm nay tôi gặp vị cứu tinh của mình,” Zhang chỉ vào Wei
Dong. “Chúng tôi phải uống Mao Đài mới được. Cho chúng tôi mấy cái ly đẹp nhất
của cô nhé!”
Giờ thì Wei Dong chắc chắn rằng người đồng hương này đã
hoàn toàn sai lầm. Có thể anh đã kết liễu một mạng người hồi còn trẻ, nhưng
chắc chắn anh chưa từng cứu người nào.
“Đồng hương ạ, đó không phải là lý do để uống mừng. Tôi
chắc chắn rằng tôi không phải là vị cứu tinh của anh. Nhưng tôi rất hân hạnh
nghe anh kể câu chuyện đó và chúc mừng cho cuộc gặp gỡ hôm nay.”
“Ngồi xuống, ngồi xuống, tôi biết mình đang nói gì mà. Hôm
nay tôi đãi.” Zhang gọi mấy món nguội trước. Rồi anh gọi mấy món nóng. Tất cả
đều là những món ăn nhiều gia vị quen thuộc mà Wei Dong gắn liền với quê mẹ của
anh.
“Nhiều quá,” Wei Dong nói.
Zhang giơ tay ngăn sự phản đối của Wei Dong, rót rượu vào
hai cái ly sứ tinh xảo màu trắng pha xanh trời, rồi giơ ly của anh ta lên: “Cạn
ly!”
Wei Dong lấy tay che ly rượu lại. “Đồng hương,” anh nói,
“tôi là một nam tử hán không uống thứ rượu không minh bạch. Trước tiên hãy nói
với tôi vì sao anh nghĩ là chúng ta quen biết nhau.”
“Cạn ly đi, rồi tôi sẽ nói cho anh biết.”
“Được.” Cả hai cùng uống và chìa cho người kia thấy đáy
ly.
“Một ngàn chín trăm sáu tám. Cách nay bao nhiêu năm rồi
nhỉ?”
“Ba mươi ba năm.” Đó là cái năm mà cuộc đấu tranh vũ trang
giữa hai phe của Hồng vệ binh đang ở đỉnh cao. Mỗi phe đều tin vào sự diễn dịch
tư tưởng Mao của mình là đúng đắn và thuần khiết, và phe bên kia chỉ là bọn bất
lương.
“Ba mươi ba năm trước, anh là một học sinh của trường
trung học chi nhánh của Đại học Bình dân Tây Nam, phải không?”
“Phải,” Wei Dong thấy lưng mình nổi gai ốc. Thông tin này
không có trong bản lý lịch của anh. Nhưng anh không tin rằng người đàn ông này
thật sự biết mình. Lúc đó anh là chỉ huy của một phe Hồng vệ binh, nhiều người
dân Trùng Khánh thời đó có thể biết tên anh.
“Anh là chỉ huy nhóm “Sấm mùa xuân.”
“Đúng.” Wei Dong cố nói một cách bình thản. “Sấm mùa xuân”
là một nhóm “chiến đấu vũ trang” trong phe Hồng vệ binh của anh.
“Mùa hè năm 1968, anh chỉ huy một toán quân đánh nhau với
chúng tôi. Và anh đã thắng. Anh đã chiếm được tòa thư viện chúng tôi đang giữ,
và cầm tù nhiều người chúng tôi.”
“Anh nằm trong số đó?”
“Không may là đúng thế.”
Wei Dong nhìn lại Zang thật kỹ, nhưng vẫn không tìm ra một
nét gì quen thuộc.
“Những người của anh muốn tử hình chúng tôi,” Zhang nói.
“Anh đã giết một chiến sĩ phe tôi.” Qua màn khói súng đã
nhạt nhòa bởi thời gian, Wei Dong vẫn có thể nhìn thấy bóng dáng một thân hình
quấn trong những manh vải trắng, nằm bất động trên mặt đất. Những gương mặt dữ
tợn và những khẩu súng vung vẫy quay cuồng trong tiếng gào thét: ‘Nợ máu phải
trả bằng máu!”
“Không phải cá nhân tôi. Nhưng cũng có thể.” Zhang rót đầy
một ly rượu nặng khác. Gương mặt anh ta bắt đầu đỏ lên, một dấu hiệu cho thấy
anh ta đang phiền muộn hoặc không chịu nổi hơi rượu mạnh.
“Lúc đó trả thù là một thứ cảm xúc.”
“Có lẽ. Vì thế anh đã nói, ‘Chỉ một! Một đổi một!’”
Wei Dong chậm rãi gật đầu. Có thể anh đã nói thế. Anh là
một chỉ huy nổi tiếng chính xác về những con số. Trước Cách mạng Văn hóa, anh
giỏi nhất môn toán.
“Rồi có ai đó kéo tôi ra và bịt mắt tôi lại.” Zhang nói.
Wei Dong nhìn thấy một thân hình xa xôi trong ly rượu của
mình; một thiếu niên thấp bé, tay bị trói ngoặc ra sau, mắt bị che lại bởi một
miếng giẻ bẩn thỉu, gương mặt nhuộm đen khói súng, đó là lý do vì sao anh không
thể nhận ra một nét quen thuộc nào ở Zhang. “Tiên sư chúng mày!” gã thiếu niên
bị che mắt và đang vùng vẫy đó hét lên hết sức. “Tao chiến đấu vì Mao Chủ tịch!
Tao chết vì Mao Chủ tịch! Bắn tao đi! Làm nhanh đi!”
Zhang nói tiếp, “Tôi tiếp tục hét vì chờ chết là điều đáng
sợ nhất.” Anh ta mỉm cười cay đắng và tiếp tục uống. “Tuy nhiên, xuyên qua
những tiếng la hét đó, tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng bóp cò.”
Wei Dong chờ sự lý giải của anh ta. Đột nhiên Zhang cười
phá lên. Anh ta chỉ vào Wei Dong. Tiếng cười làm anh ta bị sặc, và anh ta đứt
hơi khi cố nói: “Đó là… đó là… một viên đạn lép…”
“Tiếp đi.” Wei Dong rót đầy ly của Zhang và của mình.
“Tên xạ thủ nổi giận và la lên, ‘Mẹ kiếp! Để tôi bắn lại!’
Tôi có thể cảm thấy nòng súng chĩa vào mặt mình, và, giờ thì chẳng có gì phải
giấu anh, đáy quần của tôi ướt nhẹp.” Một nụ cười nhăn nhở thoáng qua góc miệng
của Zhang. “Thế rồi anh nói, ‘Khẩu súng như cứt! Hãy để dành đạn của cậu cho
trận đánh tới. Đó là vận may của hắn.’ Và anh thả cho tôi đi.”
Zhang dừng lại. Wei Dong nhìn sang những bàn lân cận. Cái
bàn bên tay trái trống rỗng, bên tay phải họ ba người đàn ông đang nói to bằng
thứ tiếng Quảng Đông không thể hiểu nổi.
“Vì thế anh là vị cứu tinh của tôi. Nhưng vì sao? Vì sao
anh thả tôi đi?” Cái nhìn đăm đăm của Zhang buộc anh phải đối diện với anh ta.
Wei Dong nhớ lại trận đánh đó, nhưng không nhớ hết mọi chi
tiết. Khi đó anh chỉ là một thiếu niên mười bốn tuổi. Những gì Zhang đã kể
giống như những gì mà có thể anh đã làm. Cha anh, một sĩ quan chuyên nghiệp,
rất mê tín dị đoan. Ông từng bảo với cậu con trai của mình rằng một phát súng
tịt là một điềm gỡ cho người xạ thủ, nó có nghĩa rằng kẻ thù chưa tới ngày tận
số và phải được thả đi. Nếu không, người xạ thủ đó sẽ gặp vận rủi. Nếu đó là
điều Wei Dong đã làm, đó là điều duy nhất mà anh làm không nhân danh cách mạng
trong thời gian đó.
Nhưng anh không nói với Zhang điều này. Anh hỏi, “Chúng
tôi có bắn ai khác sau khi thả anh hay không?”
“Không biết. Ngay khi tôi ra khỏi thư viện tôi không bao
giờ muốn làm Hồng vệ binh nữa.”
“Tốt cho anh,” Wei Dong chạm ly với Zhang và nhấp một
ngụm. Anh còn ở lại Hồng vệ binh khá lâu sau đó, cho tới khi Mao Chủ tịch không
còn cần tới họ và đưa họ về nông thôn để những nông dân nghèo cải tạo họ.
Món cuối, một con cá ngập trong lớp nước xốt nâu và hành
tươi được đưa lên, tỏa ra một làn khói thơm ngào ngạt. Zhang cắm đôi đũa vào đó
và gắp một miếng cá trắng mịn đưa lên miệng. “Ừm,” anh ta nói, “đầu bếp không
tệ. Không tệ chút nào. Ăn đi.” Anh ta gắp một miếng cá bỏ vào chén của Wei Dong.
Đề tài thay đổi. Họ nói về những cái tên mà cả hai cùng
biết vào thời Hồng vệ binh của mình. Một số người quen của họ đã bị chính phủ
hành hình sau Cách mạng Văn hóa. Một số giờ là doanh nhân giàu có ở đại lục. Có
nhiều người mà cả hai đều biết trong thời Cách mạng Văn hóa, nhưng chính Mao
Chủ tịch thì không. Những Hồng vệ binh một thời trung thành chưa hề tận mắt
nhìn thấy ông ta hay tận tai nghe thấy ông ta lần nào. Họ không thiết nhắc tới
điều gì đã biến họ thành kẻ thù hồi ba mươi ba năm trước nữa.
Họ nói về những đứa con trai tuổi teen của họ và những trò
chơi mà chúng thích. “Tomb Raider.” “Resident Evil.” Họ đồng loạt thốt ra những
cái tên này, dừng lại và cười phá lên vì sự trùng hợp. “Thật tốt khi chúng chỉ
bắn trên màn hình,” Zhang nói. “Tôi hy vọng chúng sẽ không coi thực tế như một
màn hình,” Wei Dong nói.
“Đây là một lần, và đó là lần khác.” Lưỡi của Zhang nở to
ra vì rượu.
Họ uống và trò chuyện như hai người bạn cũ đã rất lâu
không gặp lại. Vào cuối bữa ăn Zhang say mèm và không thể lái xe. Wei Dong chưa
say. Anh hài lòng thấy rằng tửu lượng của mình vẫn không kém chi hồi còn trẻ,
có lẽ trong anh vẫn còn hào khí. Anh kêu một bình trà thật đặc và uống hai ly
cho giã rượu. Trên mặt bàn bừa bộn những chén dĩa, những món ăn trong chén của
anh hầu như vẫn còn nguyên chưa đụng đến. Anh lôi chùm chìa khóa khỏi túi
Zhang, thanh toán bữa ăn, rồi đi ra chiếc Camry vàng. Khi anh lái chiếc xe của
Zhang tới trước cửa tiệm “Cựu Tứ Xuyên,” cô gái ở quầy và một phục vụ bàn khác
đang kéo Zhang đứng lên. Họ giúp đưa anh ta vào xe. Wei Dong lái xe về Quảng
trường Công nghệ, đỗ xe của Zhang vào bãi, rồi đưa Zhang sang chiếc xe Camry
bạc của mình.
Chiếc xe của anh lao lặng lẽ trong bóng tối dọc đại lộ với
Zhang nằm ngáy pho pho ở băng sau. Trong một khoảnh khắc anh lo rằng Zhang, một
đồng hương bình thường, không gợi nhớ gì tới một kẻ thù không đội trời chung
cách đó vài thập kỷ, có thể ói mửa lên xe của mình. Bên ngoài, tiếng xe cộ lưu
thông ập lên cửa sổ xe như một đợt thủy triều. Những luồng đèn đỏ trải dài mút
mắt; sau lưng anh là những ánh đèn pha vô tận trắng lóa rọi tới từ những nguồn
gốc không nhìn thấy được. Từ chiếc radio trên xe, tường thuật viên của Đài 1030
đang nói về những dấu hiệu không chắc chắn của sự hồi phục kinh tế, những mối
đe dọa khủng bố còn lơ lửng, một phát đạn vào một bệnh viện phá thai tư nhân,
những tên đánh bom liều chết ở Israel.
Hai bàn tay của Wei Dong toát mồ hôi lạnh, làm ẩm ướt cả
cái bánh lái. Tất cả những vụ giết chóc đó đều được thực hiện nhân danh Thượng
đế, hoặc một kẻ được tôn sùng như Thượng đế, người mà vì ông ta máu anh đã từng
sôi lên. Thật đáng sợ khi liên hệ những sự cuồng tín sôi nổi đó với chính bản
thân xa xôi cách nay ba mươi ba năm của anh. Những gì từng khoác vẻ hào hùng,
công bằng và vinh quang khi đó giờ đây chỉ còn là sự ngu dốt, tội lỗi và đáng
hổ thẹn. Dường như chỉ có những kẻ sống sót qua tấn thảm kịch mới có thể thấu
hiểu, những thế hệ mới bất hạnh vẫn lặp lại nó ở những nơi chốn khác nhau, vì
những nguyên cớ khác nhau.
Anh vẫn không biết mình có giết ai trong những cuộc “đấu
tranh vũ trang” đó ở Trùng Khánh hay không, dù anh biết anh từng nổ súng trong
những trận đánh. “Súng đạn không có mắt,” cha anh thường nói vậy.
Anh không muốn nghĩ thêm về nó nữa. Hy vọng ngày mai Zhang
sẽ không nghĩ tới việc phá hỏng cơ may xin việc của anh. Anh là một nhà phát
triển phần mềm tinh thông, xứng đáng với vị trí đó. Anh đã xem Boston là quê nhà của mình và anh cần tiếp
tục thanh toán cho ngôi nhà mới mà anh, vợ và con anh yêu mến.
Vợ anh ra mở cửa và giật mình. “Sao anh về trễ vậy? Đã có
chuyện gì? Ai đây?” Cô hỏi nhanh, đầy cảnh giác, với giọng Trùng Khánh.
“Một người bạn thân từ thời xưa.” Wei Dong đáp. “Giúp anh
đưa anh ta vào nhà.”
Nguyễn Thành Nhân dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét