Chủ Nhật, 19 tháng 8, 2012

Tim tôi ở cao nguyên


TIM TÔI

Ở CAO NGUYÊN

 

William Saroyan

 

 

          

 

Đôi dòng giới thiệu



William Saroyan sinh ngày 31/8/1908 tại Fresno, California. Cũng như một số thiên tài văn học trẻ khác cùng thế hệ trưởng thành sau Thế chiến I như Thomas Wolfe, F. Scott Fitzgerald...William Saroyan cất lên lời hát thiết tha ca ngợi giấc mơ nồng nàn và mãnh liệt của người dân Hợp Chủng Quốc. Nhưng khác với những người kia, xuất thân, con đường tạo lập sự nghiệp văn chương cũng như phong cách và đề tài ở các tác phẩm của William Saroyan thật sự khác thường và độc đáo. Những nét khác thường và độc đáo ấy có thể thấy ở một số sự kiện chủ yếu sau đây:

William Saroyan bỏ học năm 15 tuổi vì không chịu được sự gò bó cứng nhắc và máy móc của nhà trường. Sau khi bỏ học, ông đã làm vô số nghề khác nhau để kiếm sống, và cùng lúc, đọc hết tất cả những sách có trong thư viện Fresno.

Ngay từ tập truyện đầu tay xuất bản vào năm 1934, tập The Daring Young man on the Flying Trapeze (Chàng tuổi trẻ gan dạ trên chiếc đu bay), ông đã làm những nhà phê bình bối rối vì phong cách lạ thường và vượt mọi lề lối nguyên tắc văn chương của mình.

Năm 1940, William Saroyan được trao giải thưởng Pulitze-giải văn chương cao nhất của Mỹ, nhưng ông từ chối không nhận giải.

Viết nhiều thể loại khác nhau: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, cảo luận... với một số lượng rất nhiều, và hầu hết đều có một sức cuốn hút lạ lùng đối với người đọc bởi những cảm xúc chân thành. Chủ đề chính là niềm tin vào con người và tình yêu cuộc sống, dù rất nhiều khổ ải đau buồn, phản đối chiến tranh, ca ngợi những người nghèo khổ, bị bỏ rơi, lẻ loi cô độc nhưng sống rất tốt lành chân thực...

Ở vở kịch “My heart’s in the Highlands” được giới thiệu sau đây, các tình tiết cũng đầy bất ngờ ngẫu hứng như nhiều truyện ngắn của ông, những lời đối đáp giản dị ngây ngô, nghe chừng như  rất trẻ con vô nghĩa lý, nhưng thật ra lại chứa đựng những ý  nghĩa sâu xa và cao đẹp. Các nhân vật đối thoại với nhau bằng cảm giác nhiều hơn là ý nghĩ. Họ đáp lời nhau không phải cho cái đã nói ra mà cho cái còn trong dự  tính. Johnny nói với người chủ tiệm về sự đói khát ở Trung Hoa, nhưng ông ta hiểu rằng thật sự nó muốn nói về nhu cầu bánh mì và phó mát ở California. Hai đứa bé mồ côi xác lập một tình bạn hữu ngẫu nhiên và thoải mái khi đứa này chỉ cho đứa kia cách huýt sáo. Tình bạn của chúng được diễn tả bằng nhịp điệu chuyền bóng cho nhau cũng nhiều ngang với những câu đối đáp của chúng. Johnny có thể không hiểu hết tất cả những câu nói nhanh bằng tiếng Armenia của bà nó, nhưng nó hiểu bà.

Tóm lại, các nhân vật của Saroyan, vì tốt bụng và giàu lòng thương cảm, cũng như chịu nhiều cô độc và mất mát, đã có thể tiếp cận và đồng cảm với mỗi nhân vật khác, vượt qua những rào chắn về tuổi tác, hoàn cảnh sống và thậm chí của cả ngôn từ.

Thế giới của Saroyan không có bọn vô lại, và rất ít điều ác độc, nhưng nó không thể tránh khỏi cái xấu xa. Khi cả gia đình nó phải rời khỏi căn nhà không còn là của họ nữa, Johnny đã thốt lên: “Đã có cái gì đó sai lầm ở một nơi nào đó”. Nếu có gì đó sai lầm, thì nó không nằm trong những con người đẹp đẽ ấy, những con người mà trái tim họ luôn luôn quay trở về chốn quê nhà lý tưởng họ hằng mong ước và sẽ không bao giờ tìm thấy. Trừ phi họ phải sáng tạo nó ra cho chính mình trong từng ngày một.

                                                          Người dịch

(Lời giới thiệu này có tham khảo phần viết về William Saroyan trong cuốn Ý thức mới trong văn nghệ và triết học của Phạm Công Thiện và giới thiệu bản tiếng Anh vở kịch trong English For Today book 6)



TIM TÔI Ở CAO NGUYÊN
William Saroyan

Nhân vật :
·         Johnny
·         Ben Alexandre, bố của Jonhnny, nhà thơ
·         Bà nội của Johnny
·         Jasper Macgregor, kẻ để trái tim mình lại Cao nguyên
·         Kosak, chủ tiệm thực phẩm
·         Esther, con gái Kosak
·         Rufe Apley, thợ  mộc
·         Philip Carmichael, nhân viên viện dưỡng lão
·         Henry, thằng bé giao báo sáng
·         Wiley, bưu tá
·         Cunningham, đại diện chủ nhà cho thuê
·         Hai vợ chồng trẻ tuổi và em bé
·         Một con chó

Không gian:

·         Một căn nhà nằm trên đường San Benito Avenue, Fresno, California
·         Cửa tiệm của Kosak

Thời gian :

      Tháng 8 và tháng 11 năm 1914

Một căn nhà gỗ cũ tồi tàn, màu trắng, có cổng trước, nằm trên đường San Benito Avenue, Fresno, California. Không có căn nhà nào lân cận, chỉ duy nhất sự quạnh vắng đìu hiu của quảng đất trống và bầu trời đỏ rực. Bấy giờ là xế chiều một ngày Tháng 8 năm 1914. Mặt trời đang dần lặn.

Johnny, chín tuổi, nhưng lại có vẻ như không hề có tuổi trong bản chất, đang ngồi loay hoay trên  thềm cổng, xa vắng với ngoại cảnh và hoàn toàn chìm đắm trong một ý tưởng cao xa linh thánh. Từ xa, một tiếng còi tàu hụ lên buồn thảm. Nó lắng nghe, bồn chồn, đầu nghiêng về một bên như một con gà, cố nắm bắt ý nghĩa của tiếng còi tàu, đồng thời khám phá mọi sự vật. Nó không thực hiện được hoàn toàn chuyện đó, và thôi không nôn nao nữa khi tiếng còi đã dứt. Một thằng bé 14 tuổi, lưng đeo túi đựng báo, đang vừa cưỡi xe đạp vừa nhấm nháp một que kem, chạy lặng lẽ men theo lề con đường, quên đi gánh nặng trên vai và cả chiếc xe đạp, vì niềm vui khoái và sự tuyệt vời của những que kem trên trần thế. Johnny nhổm dậy, vẫy chào và nở một nụ cười thân ái, nhưng bị thằng bé phớt lờ. Nó lại ngồi xuống, lắng nghe một con chim đang say sưa hót như điên. Sau một đoạn phát biểu ngắn hùng hồn mà vô nghĩa, con chim bay đi mất. 

Từ trong nhà vọng ra giọng ảo não của Bố Johnny, ông ta đang ngâm nga một tác phẩm của mình.

BỐ JOHNNY:  Ngày dài câm lặng đi qua; Con tim đau đớn xót xa ưu phiền, và ­­(cay đắng dừng lại). Và - (nhanh hơn) Ngày dài câm lặng đi qua; Con tim đau đớn xót xa ưu phiền, và- (dừng lại) Không. (ông ta gầm lên và bắt đầu lại). Khóc thương lê tấm thân gầy; Thời gian trượt ngã quanh đời bơ vơ.

(Tiếng xô đẩy bàn ghế trong cơn giận dữ. Tiếng rên rỉ. Im lặng. Thằng bé lắng nghe. Nó đứng lên và cố trồng chuối ngược, thất bại, cố làm lại, thất bại, cố lần nữa, và thành công. Đang khi trồng chuối ngược, nó chợt nghe một tiếng nhạc đáng yêu và kỳ diệu nhất trên đời: tiếng sáo độc tấu. Đó là điệu khúc “Tim tôi ở Cao nguyên”. Người thổi sáo, một ông lão rất già nua, kết thúc điệu nhạc ngay trước cổng. Thằng bé nhảy lên, chạy tới bên ông cụ, kinh ngạc, hân hoan và bối rối.)

JOHNNY: Cháu chắc chắn là rất muốn nghe ông chơi thêm một bài nữa.

MACGERGOR: Chàng trai trẻ, cậu có vui lòng mang tới một ly nước cho một ông già mà trái tim của ông ta không có ở đây, vì đã để lại ở Cao nguyên hay không?

JOHNNY: Cao nguyên nào ạ?

MACGERGOR: Cao nguyên Tô Cách Lan. Cậu vui lòng chứ?

JOHNNY: Tim của ông làm gì trên cao nguyên Tô Cách Lan hở ông?

MACGERGOR: Nó đang chịu khổ đau ở đó. Cậu sẵn lòng mang cho ta một ly nước chứ?

JOHNNY: Mẹ của ông ở đâu?

MACGERGOR: (thố lộ với thằng bé) Mẹ của ta ở Tulsa, Oklahoma, nhưng tim bà không ở đó.

JOHNNY: Vậy tim của bà ở đâu?

MACGERGOR: (gằn giọng) Ở Cao nguyên Tô Cách Lan. (dịu giọng) Ta khát lắm, chàng trai trẻ ạ.

JOHNNY: Tại sao những người nhà của ông cứ luôn để lại tim mình trên Cao nguyên như vậy?

MACGERGOR: (theo kiểu cách kịch Shakespeare) Đó là con đường của chúng ta. Hôm nay ở đây nhưng mai đã xa rời.

JOHNNY: (nghiêng đầu) Hôm nay ở đây nhưng mai đã xa rời? (với Macgregor)  Ý của ông là sao?

MACGERGOR: (triết gia) Giờ đang sống nhưng phút sau sẽ chết.

JOHNNY: Mẹ của mẹ ông ở đâu?

MACGERGOR: (thố lộ nhưng giận dữ) Bà ở mạn Vermon, trong một thị trấn nhỏ gọi là White River, nhưng tim bà không ở đó.

JOHNNY: Trái tim khô héo tội nghiệp của bà cũng ở cao nguyên sao?

MACGERGOR: Ngay giữa cao nguyên. Con trai ơi, ta đang chết khát đây.

(Bố Johnny ra khỏi nhà, vẻ giận dữ, như thể ông vừa thoát khỏi một lồng thú, gầm lên với Johnny như một con cọp vừa choàng tỉnh sau cơn ác mộng.)

BỐ JOHNNY: Johnny, mày có mau buông tha ông già khốn khổ đó không. Mang cho ông bình nước trước khi ông té qụy và tiêu đời. Mày đã vứt đâu cái cung cách xử sự đàng hoàng rồi hả?

JOHNNY: Chả lẽ người ta không thể tìm hiểu đôi chút về một du khách thỉnh thoảng mới xuất hiện hay sao?

BỐ JOHNNY: Mang cho ông cụ chút nước. Mẹ kiếp. Đừng có đứng nghệch ra như thằng bù nhìn. Mang ngay nước cho ông ta, tao đã bảo, trước khi ông ngã qụy và đi đứt.

JOHNNY: Bố đi mà lấy. Bố có làm gì đâu.

BỐ JOHNNY: Không làm gì? Sao, Johnny, mày biết là tao đang hình thành một bài thơ mới trong đầu mà.

JOHNNY: Sao bố lại cho là con biết điều đó? Bố chỉ đứng đó, khoanh tay bên cánh cổng.

BỐ JOHNNY: (nổi giận) Ồ, mày cần phải biết. (gầm lên) Mày là con tao mà. (sững sờ) Nếu mày không biết thì còn ai biết nữa?

MACGERGOR: (nhã nhặn) Chào ông. Con trai ông vừa cho tôi hay khí hậu ở vùng này trong lành và dễ chịu như thế nào.

JOHNNY: (bối rối, nôn nao muốn hiểu, nghiêng đầu) Lạy thánh Moses, mình có nói gì về khí hậu đâu. Ông ta lôi ở đâu ra thế nhỉ?

BỐ JOHNNY: (nhà quý tộc, cao cả) Chào ông. Ông sẽ vào nhà nghỉ một chút xíu chứ? Chúng tôi rất vinh hạnh được mời ông dùng bữa.

MACGERGOR: (người thực tế) Thưa ông, tôi đang đói lắm. Tôi sẽ vào ngay. (Ông ta bước vào nhà, Johnny cản lối, ngước nhìn ông ta.)

JOHNNY: (kẻ lãng mạn) Ông có thể chơi bài “Đôi mắt em là nguồn hạnh phúc” được không? Cháu chắc chắn là rất muốn nghe ông chơi bài đó. Đó là bài cháu thích nhất. Cháu cho là cháu thích nó hơn bất cứ bài nào khác trên đời.

MACGERGOR: (người không còn ảo tưởng) Con trai ạ, khi con ở vào tuổi của ta, con sẽ hiểu rằng những bài ca không là gì cả, cái quan trọng là bánh mì.

JOHNNY: (kẻ chân thành) Dù sao đi nữa cháu vẫn chắc là cháu thích nghe ông chơi bài đó.
(Macgregor bước lên thềm cổng và bắt tay bố Johnny)

MACGERGOR: (cung cách cổ điển) Tôi là Jasper Macgregor. Tôi là một nghệ nhân.

BỐ JOHNNY: (vui sướng) Tôi rất vui mừng được quen biết với ông. (Kẻ quyền uy tối thượng ra lệnh) Johnny, mang cho ông Macgregor chút nước. (Johnny chạy ra sau nhà.)

MACGERGOR: (khát gần chết, thở dài, tuy nhiên nói thật lòng) Thằng bé thật đáng yêu.

BỐ JOHNNY: (phát biểu bình thường) Nó là một thiên tài, giống như tôi vậy.

MACGERGOR: (rống lên vì mệt nhọc) Tôi đoán hẳn là ông rất yêu quý nó.

BỐ JOHNNY: (vui sướng vì đang sống) Chúng tôi là một. Nó là trái tim trẻ trung của tôi. Ông có nhận ra vẻ khao khát của nó không?

MACGERGOR: (vui sướng vì vẫn còn sống) Phải nói là có thấy.

BỐ JOHNNY: (tự hào và giận dữ) Tôi vẫn là tôi, dù có già hơn và kém xuất sắc hơn.
(Johnny chạy trở lại với một bình nước, trao cho ông lão. Ông già nghiêng vai ra phía sau, ngửa cổ, lổ mũi nở rộng, ông ta khịt mũi, rồi mở to mắt, đưa chiếc bình lên môi, nốc cạn một hơi, trong khi đó hai bố con Johnny quan sát với sự ngạc nhiên và thán phục. Ông lão hít sâu một hơi, nhìn quanh, hướng về khoảng đất, rồi ngước lên nhìn bầu trời, cuối con đường San Benito, nơi mặt trời đang lặn xuống.)

MACGERGOR: (suy ngẫm, buồn rầu; yếu ớt, nhỏ nhẹ) Ta cho là ta đang ở cách xa nhà năm ngàn dặm. Ông có nghĩ là chúng ta nên ăn một chút bánh mì và phó mát để giữ hồn xác tôi còn gắn với nhau?

BỐ JOHNNY: (người phóng khoáng) Johnny, chạy xuống tiệm thực phẩm và mang về một ổ bánh Pháp và một cân phó mát.

JOHNNY: (giọng cam chịu) Đưa tiền cho con.

BỐ JOHNNY: (nhà thống kê, nhà thơ, tự hào) Con biết là ta không có xu nào mà Johnny. Bảo ông Kosak cho chúng ta mua chịu.

JOHNNY: (đứa con không sẵn lòng làm bổn phận) Ông ta không cho đâu. Ông ta đã chán ngấy việc cho chúng ta mua chịu. Ông ta bảo chúng ta không làm việc và chả bao giờ trả nợ. Chúng ta đã nợ ông ta 40 xu rồi.

BỐ JOHNNY: (mất kiên nhẫn, bực mình) Đi xuống đó và tranh luận với ông ta, Johnny. Con biết đó là công việc của mình mà.

JOHNNY: (nhà bào chữa) Ông ta sẽ không cần biết lý do. Ông ta bảo ông ta không cần biết gì là gì hết. Những gì ông ta muốn là 40 xu.

BỐ JOHNNY: (kẻ phóng khoáng) Đi xuống đó và bảo với ông Kosak bán cho con một ổ bánh Pháp và một cân phó mát. (mềm mỏng, nài nỉ, tâng bốc) Con có thể làm được mà, Johnny.

MACGERGOR: (mất kiên nhẫn, đói) Hãy đi xuống đó và bảo với ông Kosak bán cho con một ổ bánh Pháp và một cân phó mát đi, con trai.

BỐ JOHNNY: Tiến lên, Johnny. Con chưa bao giờ rời cái tiệm đó mà không có thứ này hay thứ khác. Con sẽ quay về đây sau mười phút với những thức ăn xứng với một ông hoàng. (tự chế giễu) Hoặc ít nhất cũng xứng với một quận công gì đó.

JOHNNY: Con không biết. Ông Kosak bảo chúng ta đang viện hết cớ này sang cớ nọ. Ông ta muốn biết bố đang làm loại công việc gì.

BỐ JOHNNY: (nổi giận) Được, hãy lên đường và bảo với ông ta. (Kẻ anh hùng) Ta không có gì phải che giấu cả. Ta làm thơ, cả ngày lẫn đêm.

JOHNNY: (cuối cùng xiêu lòng) Thôi được. Nhưng con không nghĩ là sẽ gây được ấn tượng gì với ông ta đâu. Ông ta bảo bố chẳng bao giờ ra khỏi nhà và tìm kiếm việc làm. Ông ta bảo bố biếng lười và không tốt.

BỐ JOHNNY: (gầm lên) Mày hãy xuống đó và bảo với ngài Slovak có trái tim cao quý ấy biết rằng ông ấy điên rồi, Johnny. Mày hãy xuống đó, và nói với nhà học giả uyên thâm và con người lịch thiệp ấy biết rằng bố mày là một trong những nhà thơ vô danh lớn nhất đang còn sống sót.

JOHNNY: Ông ấy không để ý đâu, bố ạ. Nhưng con sẽ đi. Con sẽ cố hết sức mình. Chúng ta còn gì trong nhà không?

BỐ JOHNNY: (nhạo báng, bi thảm, gầm lên) Chỉ có bỏng ngô thôi. (với Macgregor) Đã bốn hôm nay chúng tôi chỉ ăn bỏng ngô. Johnny, con phải mang về bánh mì và phó mát nếu con mong muốn ta hoàn thành thiên trường thi đó.

JOHNNY: Con sẽ cố hết sức.

MACGREGOR: Đừng lâu quá nhé, Johnny. Ta đang cách xa quê nhà năm ngàn dặm.

JOHNNY: Cháu sẽ chạy suốt quãng đường, ông Macgregor ạ.

BỐ JOHNNY: (chế giễu Thượng đế) Nếu con nhặt được xu nào trên đường thì chúng ta chia đôi đấy nhé.

JOHNNY: (hưởng ứng màn hài kịch) Được thôi, bố. (Nó chạy xuống đường.)

Bên trong cửa tiệm của ông Kosak. Ông ta đang ngủ gật, đầu gối lên cánh tay khi Johnny bước vào. Ông ta ngẩng lên. Đó là một người đàn ông lịch thiệp, nghiêm túc và đẹp đẽ, với một bộ râu vàng hoe lớn để theo kiểu cổ. Ông ta lắc lắc đầu cho tỉnh táo lại.

JOHNNY: (nhà ngoại giao như thường lệ) Ông Kosak, giả sử ông ở bên Trung Quốc và chẳng có một bạn bè nào trên đời cả, cũng chẳng có một xu, hẳn ông phải mong rằng có ai đó cho ông một cân gạo, phải không ông?

KOSAK: Cậu muốn gì?

JOHNNY: Cháu chỉ muốn trò chuyện một chút. Ông hẳn mong rằng một ai đó trong nòi giống Aryan giúp đỡ ông chút đỉnh, phải không, ông Kosak?

KOSAK: Cậu có bao nhiêu tiền?

JOHNNY: Đây không phải là vấn đề tiền bạc, ông Kosak ạ. Cháu đang nói về việc sống ở Trung Quốc.

KOSAK: Ta không biết gì là gì hết.

JOHNNY: Ông sẽ cảm thấy thế nào khi ở Trung Quốc theo cách đó, ông Kosak?

KOSAK: Ta không biết, Johnny. Ta sang Trung quốc để làm gì chứ?

JOHNNY: Ồ, ông sẽ đi du lịch sang bên ấy. Ông sẽ bị đói và cách xa quê nhà năm ngàn dặm, lại chẳng có bạn bè nào trên đời cả. Ông hẳn không mong đợi một ai đó từ chối ông dù chỉ là một cân gạo mà, phải không ông?

KOSAK: Ta cho là không, nhưng cậu không ở Trung Quốc, Johnny, và cả bố cậu cũng thế. Hai bố con cậu phải ra ngoài tìm công ăn việc làm lúc nào đó trong đời, vì vậy cả hai nên khởi sự ngay bây giờ thì hơn. Ta sẽ không cho cậu mua chịu nữa, vì ta biết cậu không bao giờ trả nợ.

JOHNNY: Ông Kosak, ông đã hiểu lầm cháu rồi. Giờ đã là năm 1914, đâu còn là năm 1913 nữa. Cháu không nói về một thứ thức ăn nào đó. Cháu đang nói về tất cả bọn người ngoại đạo xung quanh ông ở Trung Quốc, còn ông thì đang đói và gần chết đến nơi.

KOSAK: Đây không phải là Trung quốc. Cậu phải ra ngoài và kiếm sống ở đất nước này. Ở Hoa Kỳ này ai ai cũng phải làm việc cả.

JOHNNY: Ông Kosak, cứ cho là chỉ cần một ổ bánh và một cân phó mát để giúp ông sống sót trên đời, ông cũng e ngại khi hỏi xin một nhà truyền giáo Thiên Chúa những thứ đó hay sao?

KOSAK: Phải, ta e ngại.  Ta rất xấu hổ nếu phải xin.

JOHNNY: Ngay cả khi ông biết rằng ông sẽ trả lại cho ông ta hai ổ bánh và hai cân phó mát thay vì chỉ một ổ bánh và một cân phó mát? Ngay cả như vậy sao, ông Kosak?

KOSAK: Ngay cả như vậy.

JOHNNY: Đừng như vậy, ông Kosak ạ. Đó là cách nói của người chủ bại, ông biết mà. Sao chứ, điều duy nhất xảy ra cho ông là ông sẽ chết. Ông sẽ chết mòn ở đó, ở Trung Quốc, ông Kosak ạ.

KOSAK: Ta chẳng quan tâm ta sẽ ra sao. Hai bố con cậu phải trả tiền bánh và phó mát. Sao bố con cậu không đi tìm việc làm đi?

JOHNNY: (nhanh chóng thay cuộc tấn công trí tuệ bằng cuộc tấn công vào tình người) Ông Kosak, ông khỏe chứ?

KOSAK: Ta khoẻ, Johnny. Còn cậu?

JOHNNY: Không thể nào tốt hơn nữa, ông Kosak ạ. Bọn trẻ ra sao?

KOSAK: Tất cả bọn chúng đều tốt cả, Johnny. Stephan bắt đầu tập đi rồi.

JOHNNY: Tuyệt quá. Thế còn Angela?

KOSAK: Angela bắt đầu tập hát. Bà nội cậu khỏe chứ, Johnny?

JOHNNY: Bà khỏe. Bà cũng đang bắt đầu tập hát. Bà bảo bà thà làm một ca sĩ opera còn hơn là làm Nữ hoàng Anh Quốc. Còn bà Martha vợ ông thì sao, ông Kosak?

KOSAK: Ồ, tốt lắm.

JOHNNY: Cháu không thể nói với ông cháu vui sướng như thế nào khi nghe rằng ở nhà ông mọi sự đều tốt đẹp. Cháu biết một ngày nào đó Stephan sẽ trở thành một vĩ nhân.

KOSAK: Ta hy vọng là vậy. Ta sẽ cho nó đi học ở trường trung học, để nó có những cơ may mà ta không có. Ta không muốn nó gặp bất cứ rắc rối gì trong đời cả.

JOHNNY: Cháu có một niềm tin lớn vào Stephan, ông Kosak ạ.

KOSAK: Cậu muốn gì, Johnny, và cậu có bao nhiêu tiền?

JOHNNY: Ông Kosak, ông biết là cháu không đến đây để mua gì cả. Ông biết là cháu rất thích thỉnh thoảng có một cuộc tán gẫu triết lý nho nhỏ với ông. (Nhanh, nài nỉ) Hãy cho cháu một ổ bánh Pháp và một cân phó mát.

KOSAK: Cậu phải trả tiền mặt đấy, Johnny.

JOHNNY: Còn Esther? Cô con gái rượu xinh xắn của ông ra sao, ông Kosak?

KOSAK: Nó vẫn khoẻ, Johnny, nhưng cậu phải trả tiền mặt. Cậu và bố cậu là những công dân tồi tệ nhất thị trấn này đấy.

JOHNNY: Cháu mừng là Esther vẫn khoẻ, ông Kosak ạ. Jasper Macgregor đang tới chơi ở nhà cháu. Ông ấy là một nghệ sĩ lớn.

KOSAK: Chưa hề nghe tên ông ấy.

JOHNNY: Và một chai bia cho ông Macgregor nữa.

KOSAK: Ta không thể bán chịu bia cho cậu.

JOHNNY: Chắc chắn là ông có thể mà.

KOSAK: Ta không thể. Ta sẽ đưa cho cậu một ổ bánh và một cân phó mát, nhưng chỉ có thế mà thôi. Nếu như bố cậu làm việc, ông ta làm loại công việc gì thế, Johnny?

JOHNNY: Bố cháu làm thơ, ông Kosak ạ. Đó là công việc duy nhất của bố cháu. Ông ấy là một trong những nhà thơ lớn nhất trên đời.

KOSAK: Khi nào thì ông ấy kiếm được chút tiền?

JOHNNY: Ông ấy chưa bao giờ kiếm được chút tiền nào. Người ta không thể đứng núi này trông núi nọ, phải không ông.

KOSAK: Ta chẳng thích loại công  việc đó chút nào. Tại sao bố cậu không làm việc như mọi người khác, Johnny?

JOHNNY: Bố cháu làm việc vất vả hơn bất cứ người nào khác. Bố cháu làm việc vất vả gấp đôi một người bình thường.

(Kosak trao cho Johnny một ổ bánh Pháp và một cân phó mát.)

KOSAK: Được rồi, vậy là cậu nợ ta 55 xu đấy nhé, Johnny. Lần này ta cậu chịu, nhưng sẽ không bao giờ lặp lại nữa đâu.

JOHNNY: (ở cửa) Bảo Esther cháu yêu cô ấy. (Johnny chạy khỏi cửa tiệm. Kosak vồ một con ruồi, hụt, vồ lại lần nữa, lại hụt, và như để phản kháng lại thế giới bằng cung cách này, ông ta đuổi theo con ruồi vòng quanh phòng, cố tóm lấy nó.)

Căn nhà. Bố Johnny và ông lão đang trông xuống đường để chờ xem Johnny có mang thức ăn về không. Bà nội của nó đứng trên thềm cổng cũng nôn nóng muốn biết có được thứ gì để ăn không.

MACGREGOR: Ta cho là nó sẽ mang về đôi thứ gì đấy.

BỐ JOHNNY: (tự hào) Dĩ nhiên là sẽ có. (Ông ta vẫy gọi bà cụ đang đứng ở cổng để bà vào nhà dọn bàn. Johnny chạy về tới.) Ta biết là con sẽ làm được mà.

MACGREGOR: Ta cũng thế.

JOHNNY: Ông ta bảo chúng ta phải trả 55 xu. Ông ta bảo sẽ không cho chúng ta mua chịu thêm bất cứ thứ gì nữa.

BỐ JOHNNY: Đó là ý kiến của ông ta. Con đã nói chuyện gì thế?

JOHNNY: Đầu tiên con nói về việc bị đói và sắp chết tới nơi ở Trung Quốc. Rồi con hỏi thăm về gia đình.

BỐ JOHNNY: Mọi người ra sao?

JOHNNY: Tốt cả. Tuy nhiên, con chẳng thấy tiền bạc gì hết, ngay cả một xu teng.

BỐ JOHNNY: Ồ, thế là ổn rồi. Tiền không phải là tất cả. (Họ đi vào nhà.)

Phòng ăn. Mọi người ngồi quanh bàn sau bữa ăn. Macgregor tìm kiếm những mẩu vụn thức ăn rải rác đây đó, rồi ông ta khẽ khàng cho vào miệng. Ông ta nhìn quanh phòng xem có còn gì để ăn nữa không.

MACGREGOR: Cái thùng xanh ở đàng kia có gì bên trong vậy, Johnny?

JOHNNY: Mấy viên bi.

MACGREGOR: Cái bình, Johnny. Trong đó có gì ăn được hay không?

JOHNNY: Mấy con dế.

MACGREGOR: Còn cái chậu ở góc nhà. Trong đó có gì vui vẻ chứ, Johnny?

JOHNNY: Cháu nuôi một con rắn nước trong đó.

MACGREGOR: Tốt, ta rất khoái được thưởng thức một ít thịt rắn luộc đấy, Johnny.

JOHNNY: (ngang bướng, người bảo vệ thú vật) Không có gì cả, ông Macgregor.

MACGREGOR: Tại sao không, Johnny? Vì cái lý do chết tiệt nào vậy, con trai? Ta có nghe nói rằng những thổ dân của đảo Borneo xinh đẹp thường ăn rắn và cào cào. Chắc là con phải có nửa tá cào cào mập ú quanh đâu đây nữa phải không, Johnny?

JOHNNY: Chỉ có bốn con thôi.

MACGREGOR: Ồ, mang chúng ra đây, con trai, và sau khi chúng ta no bụng, ta sẽ chơi bài “Đôi mắt em là nguồn hạnh phúc” cho con nghe. Ta hãy còn đói lắm, Johnny.

JOHNNY: Cháu cũng vậy, nhưng cháu không muốn bất kỳ ai giết những con vật vô tội này. Chúng cũng có quyền sống như  bất cứ người nào khác.

BỐ JOHNNY: Ông sẽ chơi một lát chứ. Tôi đoán là thằng bé sẽ rất vui sướng.

JOHNNY: (nhảy cẩng lên) Chắc chắn là cháu rất vui, ông Macgregor.

MACGREGOR: Thôi được, Johnny. Bánh mì. Bánh mì. Lạy Chúa, sao mà nó gây hấn với trái tim mới hung hăng làm vậy. (Ông ta đứng lên và bắt đầu thổi vào ống sáo. Ông thổi lớn hơn, tuyệt diệu hơn và buồn thảm hơn bất cứ người nào từng thổi sáo. Mười tám người hàng xóm tụ tập phiá trước cổng reo lên hoan hô khi ông kết thúc bài nhạc solo “Đôi mắt em là nguồn hạnh phúc”.)

BỐ JOHNNY: (vui sướng, hài hước) Tôi muốn ông tiếp xúc với những khán giả của ông. (Họ đi ra cổng.)

Căn nhà. Đám đông hướng về bố Johnny, Macgregor và Johnny.

BỐ JOHNNY: Hỡi những láng giềng và bạn tốt của tôi, tôi muốn các bạn gặp gỡ ông Macgregor, nhà kịch sĩ Shakespeare vĩ đại nhất của thời đại chúng ta. (dừng lại)  Tôi tin như thế.

MACGREGOR: (nhà nghệ sĩ)  Tôi còn nhớ lần ra mắt đầu tiên của tôi ở London vào năm 1891 như thể nó vừa xảy ra ngày hôm qua. Lúc đó, tôi là một thằng nhóc 14 tuổi xuất thân từ khu ổ chuột Glasgow. Vai đầu tiên của tôi là một gã liên lạc trong một vở kịch mà không may tôi quên mất tên rồi. Tôi chẳng được nói một câu thoại nào, nhưng di chuyển khá là nhộn, chạy từ quan chức này tới quan chức kia, từ một kẻ đang yêu tới người y yêu dấu, rồi ngược lại, và cứ chạy đi chạy lại mãi như thế.

RUFE APLEY: (tiếc vì phải cắt ngang lời diễn thuyết hùng hồn) Ông sẽ chơi thêm một bài khác chứ, ông Macgregor?

MACGREGOR: Anh còn quả trứng nào ở nhà chứ?

RUFE APLEY: Chắc chắn là có.  Ở nhà tôi còn một tá trứng.

MACGREGOR: Thế có tiện cho anh không nếu quay về và mang tới đây một trong số chục trứng đó? Khi anh trở lại, ta sẽ chơi một bài làm cho tim anh run lên vì thảm sầu và vui sướng.

RUFE APLEY: Tôi sẽ đi ngay. (anh ta đi)

MACGREGOR: (với đám đông) Các bạn của tôi, tôi rất vui lòng chơi một bài khác bằng cái ống sáo khảm vàng này, nhưng thời gian và quãng đường xa từ quê nhà tới đây đã làm tôi mệt mỏi. Nếu các bạn sẵn lòng để trở về nhà, từng bạn một, và rồi quay lại đây với một thứ thức ăn gì đó, tôi sẽ lấy làm tự hào mà tập trung hồn phách lại để chơi một bài nhạc, mà tôi biết sẽ làm đổi hướng cuộc đời các bạn, và xin hãy nhớ, là thay đổi nó, theo hướng tốt hơn.

(Mọi người đi. Người cuối cùng là Esther Kosak, nó nghe cho đến hết bài diễn thuyết rồi chạy đi. Macgregor, hai bố con Johnny ngồi trên bậc thềm, yên lặng. Rồi lần lượt từng người quay trở lại, mang theo thức ăn cho Macgregor: một quả trứng, một thỏi xúc xích, một tá củ hành, hai thứ phó mát, bơ, hai thứ bánh mì, khoai luộc, cà chua tươi, một trái dưa hấu, trà, và nhiều món ăn ngon lành khác) Cám ơn, các bạn của tôi, cám ơn. (Ông lão đứng trang nghiêm, chờ cho im lặng hoàn toàn, người vươn thẳng, nhìn quanh một cách giận dữ, đưa ống sáo lên môi và bực dọc vì Esther trở lại một cách vội vã, ồn ào, nó mang tới một trái cà tím. Khi đã lặng im, ông ta chơi bài “Tim tôi ở Cao nguyên, tim tôi không ở nơi này”. Mọi người khóc nức nở, quỳ xuống, đồng ca, rồi ra về. Macgregor quay sang hai bố con. Trang trọng.) Thưa ông, nếu tất cả những thứ này cũng là của ông, tôi mong sẽ được tá túc thêm một ít lâu ở nhà ông trước lúc lên đường.

BỐ JOHNNY: (vui sướng và bối rối) Thưa ông, nhà tôi cũng là nhà của ông. (Họ đi vào nhà.)

Phòng ăn. Mười tám ngày sau, Macgregor nằm ngủa mặt trên sàn nhà, đang ngủ. Johnny lặng lẽ đi lại trong phòng, nhìn mọi người. Bố nó ngồi ở bàn, làm thơ. Bà nội nó đang ngồi trên chiếc ghế đu. Có tiếng gõ cửa, mọi người nhổm lên chạy tới cửa, trừ Macgregor.

BỐ JOHNNY: Sao, ai đó?

CHÀNG TRAI: Tôi tới tìm ông Macgregor, nhà nghệ sĩ.

BỐ JOHNNY: Ông muốn gì?

JOHNNY: Phải đấy, bố, dù sao cũng phải hỏi anh ta.

BỐ JOHNNY: Ờ, tất nhiên rồi. Xin lỗi, mời ông vào nhà. (Chàng trai đi vào.)

CHÀNG TRAI: Tôi là Philip Carmichael. Tôi đến từ viện dưỡng lão. Người ta cử tôi đến để đưa ông Macgregor về nhà.

MACGREGOR: (thức giấc và ngồi dậy) Nhà? Có ai vừa nói tới nhà, phải không? (gầm lên) Ta cách xa nhà năm ngàn dặm, đã luôn luôn như thế, và cũng sẽ là thế mãi. Chàng trai trẻ này là ai?

CHÀNG TRAI: Ông Macgregor, tôi là Philip Carmichael, người của Viện dưỡng lão. Họ cử tôi đến để đưa ông về. Hai tuần nữa chúng tôi sẽ tiến hành cuộc trình diễn thường niên và cần có ông đóng vai chủ đạo.

MACGREGOR: (đứng lên với sự giúp đỡ của hai bố con Johnny) Đó là loại vai gì thế? Ta không còn đóng được những vai trẻ trung mạo hiểm đâu.

CHÀNG TRAI: Đó là vai Vua Lear, ông Macgregor. Nó rất hợp với ông.

MACGREGOR: (nhà nghệ sĩ có việc làm trở lại) Tạm biệt, các bạn yêu dấu của ta. (Ông ta quay lại từ cổng) Trong tất cả những khoảnh khắc của đời ta, ở tất cả mọi nơi ta từng đến, chưa bao giờ và không có nơi nào ta từng có niềm vinh hạnh và nỗi sướng vui được tiếp xúc với những tâm hồn cao quý, trong sạch và dào dạt niềm vui như ở nhà các bạn. Tạm biệt.

(Ông lão và chàng trai rời khỏi căn nhà. Một khoảnh khắc im lặng đầy tiếc nuối và cô đơn.)

BỐ JOHNNY: (đói, lớn tiếng) Johnny, đi xuống tiệm ông Kosak và mang về chút gì  ăn. Ta biết con làm được mà, Johnny. Hãy mang về bất cứ cái gì.

JOHNNY: (đói, lớn tiếng, giận dữ) Ông Kosak muốn có 85 xu. Ông ta sẽ không cho mua chịu bất cứ thứ gì nữa.

BỐ JOHNNY: Hãy đi đi, Johnny. Con biết là con sẽ làm cho nhà quý tộc tốt bụng người Slovak đó đưa cho chúng ta chút gì để ăn mà.

JOHNNY: (tuyệt vọng) Ồ, bố.

BỐ JOHNNY: (kinh ngạc, gầm lên) Sao? Mày, con trai của ta, lại có cái vẻ yếu đuối như vậy! Thôi nào. Ta đã chiến đấu với thế giới theo cách đó trước khi con ra đời. Sau khi con sinh ra, chúng ta cùng nhau chiến đấu, và chúng ta sẽ còn tiếp tục chiến đấu với nó như thế mãi. Người ta yêu thơ, nhưng không hiểu nó, chỉ có vậy thôi. Không có cái gì ngăn cản được chúng ta, Johnny. Đi xuống dưới đó ngay, và kiếm gì về để chúng ta ăn.

JOHNNY: Được rồi, bố. Con sẽ cố hết sức. (Nó chạy ra cửa.)

Căn nhà. Giờ có treo một tấm biển lớn: “Cho thuê”. Đó là một khoảnh khắc trước lúc rạng đông của một ngày đầu tháng 11 năm 1914. Đã có những dấu hiệu của mùa Đông đang tới. Cao cao trên bầu trời một đàn ngỗng bay về Nam kêu líu ríu. Johnny ngồi phiá trước cổng, tay chống vào cằm. Nó nghe thấy tiếng ngỗng kêu, chăm chú lắng nghe, nhổm lên và ngẫng đầu nhìn chúng. Tiếng kêu nhỏ dần rồi tắt hẳn. Johnny quay lại chiếc cổng, ngồi xuống. Khi mặt trời mọc, một nụ cười trang trọng, rạng rỡ hiện lên trên nét mặt nó. Nó liếc nhìn tia nắng qua khoé mắt như thể đó là một người bạn thân lặng lẽ mà nó hoàn toàn thấu hiểu. Khi ánh sáng rạng dần, trò chơi giữa Johnny và mặt trời cũng tăng theo, như một chuỗi nhạc, làm nó nhón chân lên, quay mặt về phiá ánh sáng. Nó giơ cao đôi cánh tay, và rất nghiêm trang khởi sự thực hiện một cú nhào lộn. Rồi nó chạy tung tăng vòng quanh nhà và trở lại từ phiá bên kia, gần như đang nhảy múa.

Một chuyến tàu chở hàng chạy qua, không xa lắm, làm rung động mặt đất. Ánh bình minh rạng dần.

Một thằng bé giao báo sáng đang vừa đi bộ tới, vừa huýt sáo. Nó là một kiểu mẫu của những tay giao báo sáng vùng tỉnh lẻ: khoảng mười ba tuổi. Nó có vẻ già dặn và đàng hoàng của những người đã mang trọng trách. Các túi báo đã rỗng không. Đêm đã qua rồi.  Nó đã kiếm được khoản tiền công nhật. Những tờ báo đã được đặt trên thềm cửa của các bạn đọc. Một ngày mới đã tới với trần gian. Nó đã đi bộ suốt hai tiếng đồng hồ cho đến sáng qua những đường phố tối. Khúc nhạc nó huýt sáo thật dịu dàng và đầy thông cảm. Đó là một khúc nhạc do nó tự ứng tác, một khúc ca chào buổi sáng.

JOHNNY: (chạy xuống bậc thềm) Chào cậu.

THẰNG BÉ: (đứng lại) Chào cậu.

JOHNNY: Đó là bài gì vậy?

THẰNG BÉ: Bài nào?

JOHNNY: Bài cậu vừa huýt sáo đấy.

THẰNG BÉ: Tớ  vừa huýt sáo à?

JOHNNY: Thật mà. Cậu không biết hay sao?

THẰNG BÉ: Tớ cho là mình thường huýt sáo luôn mồm.

JOHNNY: Thế đó là bài gì?

THẰNG BÉ: Tớ không biết.

JOHNNY: Tớ ước gì tớ cũng huýt sáo được.

THẰNG BÉ: Ai cũng có thể huýt sáo được.

JOHNNY: Tớ không thể. Cậu làm như thế nào?

THẰNG BÉ: Không làm thế nào cả. Cậu chỉ việc huýt thôi.

JOHNNY: Như thế nào?

THẰNG BÉ: Như thế này. (Nó huýt một lúc, rõ là đã ứng khẩu một cách tài tình.)

JOHNNY: (thán phục) Ước gì tớ có thể làm như thế.

THẰNG BÉ: (hài lòng và nôn nóng gây một ấn tượng mạnh hơn) Có gì đâu. Hãy nghe đây nhé. (Nó huýt một điệu nhạc vui có bè hai giọng và có nhấn nhịp.)

JOHNNY: Cậu dạy cho tớ chứ?

THẰNG BÉ: Người ta không thể dạy huýt sáo. Cậu chỉ việc huýt thôi. Đây là một kiểu khác. 

(Nó huýt một điệu khúc vui, theo phong cách ồn ào của giới trẻ hiện đại, nhưng nó làm cho dịu nhẹ đi.)

JOHNNY: (cố thử huýt) Như thế này à?

THẰNG BÉ: Đó là cách khởi đầu. Cậu cứ giữ như thế, một lúc sau miệng cậu sẽ có hình dáng đúng và cậu sẽ huýt được mà không tự biết nữa kia.

JOHNNY: Thật chứ?

THẰNG BÉ: Chắc chắn mà.

JOHNNY: Mẹ cậu chết rồi phải không?

THẰNG BÉ: Sao cậu biết?

JOHNNY: Mẹ tớ cũng đã chết.

THẰNG BÉ: Thế à?

JOHNNY: (thở dài) Vâng. Bà đã chết rồi.

THẰNG BÉ: Tớ không nhớ mẹ tớ. Cậu nhớ mẹ cậu chứ?

JOHNNY: Không chính xác là nhớ. Đôi khi tớ nằm mơ thấy mẹ tớ.

THẰNG BÉ: Trước kia tớ cũng vậy.

JOHNNY: Thế cậu không còn mơ thấy mẹ nữa sao?

THẰNG BÉ: (người không còn ảo tưởng) À... à... vâng. Thế các giấc mơ tốt cho cậu chứ?
JOHNNY: Mẹ tớ chắc chắn là rất xinh đẹp.

THẰNG BÉ: Vâng, tớ biết. Tớ nhớ. Cậu có bố chứ?

JOHNNY: (tự hào) Ồ, chắc chắn rồi. Ông ấy đang ở trong nhà, đang ngủ.

THẰNG BÉ: Bố tớ cũng đã chết rồi.

JOHNNY: Cả bố cậu nữa sao?

THẰNG BÉ: (xác nhận) Vâng. (Chúng bắt đầu chuyền cho nhau một quả tennis cũ.)

JOHNNY: Thế cậu còn có ai thân thích nữa không?

THẰNG BÉ: Tớ có một bà cô, nhưng bà ấy không thực sự là cô tớ. Tớ lớn lên ở trại mồ côi. Tớ được nhận làm con nuôi.

JOHNNY: Trại mồ côi là gì?

THẰNG BÉ: Đó là một nơi mà bọn trẻ con không cha không mẹ sống cho đến lúc chúng được ai đó nhận làm con nuôi.

JOHNNY: Cậu nói nhận làm con nuôi, nghĩa là sao?

THẰNG BÉ: Một người nào đó muốn có một thằng bé hay con bé sẽ đến trại mồ côi và ngắm nghía chọn lựa, sau đó họ mang theo một đứa mà họ thích. Nếu họ chọn cậu, cậu đến ở với họ.

JOHNNY: Cậu có thích điều đó không?

THẰNG BÉ: Thế cũng tốt thôi. (Nó cất quả bóng.)

JOHNNY: Tên cậu là gì?

THẰNG BÉ: Henry. Còn cậu?

JOHNNY: Johnny.

THẰNG BÉ: Cậu muốn lấy một tờ báo không? Đang có chiến tranh ở Châu Âu đấy.

JOHNNY: Tớ không có tiền. Chúng tớ không giàu. Chúng tớ không làm việc. Bố tớ làm thơ.

THẰNG BÉ: (đưa cho Johnny tờ báo thừa) Ồ, chả sao đâu, cậu đã bao giờ có tiền chưa?

JOHNNY: Lâu lâu. Có lần tớ nhặt được đồng 25 xu. Nó nằm trên lề đường, ngay phía trước tớ. Lần khác, bố tớ nhận một tờ séc 10 đô la từ New York gửi tới. Nhà tớ mua một con gà và thật nhiều tem, giấy và phong bì. Thế nhưng con gà không đẻ trứng, vì vậy bà tớ thịt nó cho cả nhà ăn. Cậu có bao giờ ăn thịt gà chưa?

THẰNG BÉ: Chắc chắn rồi. Tớ cho là tớ đã ăn thịt gà sáu bảy lần rồi.

JOHNNY: Sau này lớn lên cậu sẽ làm gì?

THẰNG BÉ: Chậc. Tớ cũng không biết nữa. Tớ không biết tớ sẽ làm gì.

JOHNNY: (tự hào) Tớ sẽ là nhà thơ như bố tớ. Bố tớ bảo thế.

THẰNG BÉ: Tớ cho là tớ phải đi giao báo một thời gian nữa.( Nó cất bước) Thôi, chào nhé.

JOHNNY: Cậu có tới đây nữa không?

THẰNG BÉ: Sáng nào tớ cũng đi ngang qua đây, khoảng giờ này. Nhưng trước đây tớ chưa bao giờ gặp cậu.

JOHNNY: (mỉm cười) Tớ nằm mơ, rồi khi thức giấc tớ không muốn ngủ nữa. Tớ muốn dậy và ra ngoài này. Tớ đã mơ thấy mẹ tớ.

THẰNG BÉ: Có thể tớ sẽ gặp lại cậu một sớm mai nào đó khi cậu không ngủ được.

JOHNNY: Tớ hy vọng là thế. Chào nhé.

THẰNG BÉ: Chào cậu. Cứ cố như thế và cậu sẽ biết huýt sáo trước khi cậu nhận ra.

JOHNNY: Cám ơn. (Thằng bé vừa đi vừa huýt sáo. Johnny tung cuộn báo lên chỗ cổng rồi ngồi xuống bậc thềm. Bà nội nó ra với một cây chổi và bắt đầu quét.)

BÀ NỘI JOHNNY: (nói tiếng Armenia, là thứ tiếng duy nhất bà biết, với một số từ pha trộn tiếng Thổ, Kudish và vài từ Ả rập, mà dường như không ai xung quanh hiểu cả.) Cháu khỏe chứ, cháu cưng?

JOHNNY: (biết tiếng Armenia, nhưng hầu như chưa bao giờ nói, nói tiếng Anh) Cháu khỏe.

BÀ NỘI JOHNNY: Còn bố cháu?

JOHNNY: Cháu không biết. (gọi to) Ồ, bố ơi, bố khỏe không? (ngừng, gọi tiếp) Bố ơi. (ngừng. Im lặng) Cháu cho là bố còn đang ngủ.

BÀ NỘI JOHNNY: Còn tí tiền nào không?

JOHNNY: Tiền à? (lắc đầu) Không.

BỐ JOHNNY: (từ phía trong nhà) Johnny?

JOHNNY: (nhổm lên) Bố ạ?

BỐ JOHNNY: Con vừa gọi phải không?

JOHNNY: Vâng. Bố khỏe không?

BỐ JOHNNY: Tốt. Còn con?

JOHNNY: Tốt, bố ạ.

BỐ JOHNNY: Con đánh thức bố chỉ vì thế thôi sao?

JOHNNY: (với bà) Bố cháu khỏe. (Nói to với bố) Quý phu nhân già muốn biết bố có khỏe không.

BỐ JOHNNY: (nói tiếng Armenia với bà cụ) Chào mẹ. (với Johnny bằng tiếng Anh) Con nói già là sao? Bà chưa già lắm đâu.

JOHNNY: Con không có ý nói là già. Bố biết ý con mà.

(Bố Johnny vừa đi ra cổng, vừa cài nút áo, gật đầu chào bà cụ, nhìn mặt trời qua khoé mắt hệt như kiểu của Johnny, mỉm cười cũng theo kiểu của nó, duỗi chân tay, quay mặt về hướng mặt trời và làm một cú lộn nhào, nhưng không khá lắm. Cú lộn nhào làm ông té ngửa ra.)

JOHNNY: Bố cần tập thể dục nhiều thêm một chút bố ạ. Bố cứ ngồi suốt buổi.

BỐ JOHNNY: (nằm ngửa) Johnny, bố của con là một nhà thơ lớn. Ta có thể không nhào lộn giỏi bằng con, nhưng nếu con muốn biết ta là một vận động viên cừ khôi cỡ nào, cứ đọc bài thơ ta vừa viết hôm qua.

JOHNNY: Nó hay thật hở bố?

BỐ JOHNNY: Hay à? (Ông ta nhổm lên như một vận động viên nhào lộn) Phải nói là tuyệt vời. Ta cũng sẽ gửi nó cho tờ nguyệt san Atlantic.

JOHNNY: Ồ, con quên khuấy mất, bố, trên cổng có một tờ báo đấy.

BỐ JOHNNY: Ý con là một tờ báo buổi sáng hở Johnny?

JOHNNY: Vâng ạ.

BỐ JOHNNY: Chà, thật là một sự bất ngờ thú vị. Con đào đâu ra vậy?

JOHNNY: Henry cho con.

BỐ JOHNNY: Henry? Henry là ai thế?

JOHNNY: Cậu ấy là người không cha không mẹ. Cậu ấy còn biết huýt sáo nữa cơ.

BỐ JOHNNY: (nhặt tờ báo, mở ra) Hẳn nhiên đó là một cậu bé tốt bụng. (Ông ta chìm vào các đề mục của tờ báo.)

BÀ NỘI JOHNNY: (với cả hai bố con, với chính mình, với cả thế giới) Cái ông già ấy đâu rồi?

BỐ JOHNNY: Dạ... ạ?

JOHNNY: Ai ạ?

BÀ NỘI JOHNNY: Cháu biết mà. Cái ông lão thổi tù và ấy mà. (Bà làm điệu bộ thổi tù và.)

JOHNNY: A, ông Macgregor phải không? Họ mang ông ấy về viện dưỡng lão rồi bà ạ.

BỐ JOHNNY: (đọc thành tiếng) Áo. Đức. Pháp. Anh. Nga. Tàu chiến. Tàu ngầm, Xe tăng. Súng máy. Bom. (lắc đầu) Bọn chúng lại nổi điên nữa rồi.

BÀ NỘI JOHNNY: (với Johnny, vẻ khiển trách) Bé con, sao con không nói tiếng Armenia?

JOHNNY: Cháu nói không được, bà ạ.

BỐ JOHNNY: (với Johnny) Có chuyện gì?

JOHNNY: Bà muốn hỏi về ông Macgregor.

BÀ NỘI JOHNNY: (với bố Johnny) Ông ta đâu?

BỐ JOHNNY: (tiếng Armenia) Ông ấy đã trở lại viện dưỡng  lão.

BÀ NỘI JOHNNY: (lắc đầu) Ôi chao, tên tù nhân già tội nghiệp.

JOHNNY: Nó giống như nhà tù hở bố?

BỐ JOHNNY: Ta không biết chắc, con trai ạ.

BÀ NỘI JOHNNY: (phẫn nộ, giống kiểu của con trai và cháu của bà khi bực tức) Tại sao ông ấy không quay lại sống ở đây, nơi đây mới là chỗ của ông ta? (Bà đi vào nhà.)

JOHNNY: Phải đấy, bố. Sao ông Macgregor không quay lại và sống ở đây. Ông ấy có bắt buộc phải ở chỗ đó không?

BỐ JOHNNY: Nếu con là một ông già, rất già, và không có ai thân thuộc, cũng chẳng có tiền, con phải sống ở đó, Johnny ạ.

JOHNNY: Con đoán là đôi khi ông ấy thấy cô đơn lắm. Bố có cho là vậy không, bố?

BỐ JOHNNY: Thực lòng ta cho là vậy, Johnny.

JOHNNY: Lúc nào con cũng nhớ ông, nhất là tiếng nhạc. Cả cái cách ông uống nước nữa.

BỐ JOHNNY: Ông ấy là một con người vĩ đại.

JOHNNY: Có thật là tim của ông ấy để ở cao nguyên như ông ấy nói không bố?

BỐ JOHNNY: Không chính xác là như thế.

JOHNNY: Thế có thật là ông ở cách xa nhà năm ngàn dặm?

BỐ JOHNNY: Ít nhất cũng như thế con ạ.

JOHNNY: Bố có nghĩ là một ngày nào đó ông ấy sẽ trở về nhà không?

BỐ JOHNNY: Ông ấy đã già, Johnny, ông ấy sẽ trở về nhà.

JOHNNY: Ý bố là ông sẽ lên một chiếc tàu hỏa, một con tàu và quay lại chốn cao nguyên ấy, có phải không?

BỐ JOHNNY: Không phải thế, Johnny. Có một chút xíu khác biệt. Ông ấy sẽ chết.

JOHNNY: Đó là cách duy nhất để một người trở về nhà sao bố?

BỐ JOHNNY: Đó là cách duy nhất.

(Suốt thời gian đó, dĩ nhiên là bố Johnny tiếp tục lật tờ báo, và Johnny vẫn nhào lộn theo nhiều kiểu, đi lắt lẻo trên đường ray cổng, nhảy xuống, nhào lộn, trồng cây chuối và cứ như vậy. Một số câu hỏi của nó đặt ra trong lúc nó đang trồng chuối ngược. Từ xa, có tiếng còi vọng đến.)

JOHNNY: (nôn nóng) Đó là ông Wiley, người phát thư, bố ạ. (Bố Johnny nhổm lên, đánh rơi tờ báo.)

JOHNNY: Bố có nghĩ là mình sẽ nhận được một lá thư từ New York không bố, có lẽ còn kèm theo một tờ chi phiếu nữa.

BỐ JOHNNY: Bố không biết, Johnny.

(Ông Wiley chạy xe đạp tới, ông ta gần như dừng xe ngay sát bên hai bố con Johnny.)

WILEY: (nhảy xuống xe như thể nó là một con ngựa) Chào ông, Alexander.

BỐ JOHNNY: Chào ông, ông Wiley.

JOHNNY: Có thư nào cho chúng cháu không ông Wiley?

WILEY: (lôi một xấp thư từ cái túi ra, tháo dây và tìm kiếm) Ồ, để xem, Johnny. Bác cho là bác có một thứ mang đến cho bố cháu.

JOHNNY: Có phải từ New York không ạ?

WILEY: (cầm một phong bì dày ) Phải, Johnny. Chà, ông Alexander, có vẻ là mùa đông đã đến rồi. Sáng nay có một bầy ngỗng bay qua.

BỐ JOHNNY: (kích động, nôn nóng, cố giữ vẻ bình thường) Vâng, tôi biết. (tự nhủ) Ta biết. Ta biết.

JOHNNY: Nếu cháu nhận được lá thư nào từ New York, cháu sẽ cất giữ nó mãi.

WILEY: (muốn chuyện trò) Mọi chuyện thế nào, ông Alexander?

BỐ JOHNNY: Tôi đã có nhiều may mắn trong công việc, cám ơn ông, Wiley.

JOHNNY: Bố cháu đã từng ở New York. Phải không, bố?

BỐ JOHNNY: Phải, Johnny. Gia đình ông ra sao, Wiley?

WILEY: Tất cả đều khoẻ, trừ đứa út, thằng Joe. Nó cứ khóc mãi. Đó là cái tôi không sao chịu nổi. Tôi không biết đích xác là sao, nhưng nó làm tôi mất hết niềm tin vào mọi sự. Khi thằng bé khóc, tôi tự nhủ : Ồ, để làm gì  kia chứ?

JOHNNY: Cháu cho là một ngày nào đó cháu sẽ tới New York trước khi chết.

BỐ JOHNNY: Không sao đâu, ông Wiley. Rồi ít nữa nó sẽ thôi không khóc mà.

WILEY: Chà, tôi cũng mong là thế, và càng sớm càng tốt. (Ông ta định đi mang theo chiếc phong bì) Tạm biệt, ông Alexander. Tạm biệt, Johnny.

BỐ JOHNNY: Ông Wiley.

(Wiley trao phong thư. Họ chào nhau, Wiley đạp xe đi. Bố Johnny đưa phong thư về trước, rõ ràng là muốn mở ra, nhưng lại e dè.)

JOHNNY: (mất kiên nhẫn) Thôi mà, bố. Nào, hãy mở nó ra đi. Bố còn chờ gì nữa?

BỐ JOHNNY: (nổi giận, gầm lên) Johnny, ta sợ. Ta không hiểu tại sao ta, bố của con, lại có thể sợ hãi như thế.

JOHNNY: Giọng của bố không có vẻ gì sợ sệt cả, bố ạ. Từ đâu gửi thế?

BỐ JOHNNY: Hẳn là từ tờ nguyệt san Atlantic rồi. Con có nhớ mấy bài thơ bố đã viết sau khi ông Macgregor tới ở đây không?

JOHNNY: Có lẽ họ đã mua mấy bài thơ đó.

BỐ JOHNNY: Mua chúng. Không đâu. Họ không mua con ạ. Họ đe dọa chúng ta cho tới chết. (đọc tên và địa chỉ của mình với vẻ nghiêm trang, căng thẳng và cuồng giận kinh khủng) Ben Alexander, 2226 San Benito, Fresno, California.

JOHNNY: Đúng là gửi cho bố, bố ạ. Sao bố không mở nó ra đi?

BỐ JOHNNY: (gầm lên) Ta sợ, ta đã bảo con mà. Ta sợ và xấu hổ. Những bài thơ này thật tuyệt. Sao ta lại có thể sợ hãi thế này?

JOHNNY: (thách thức) Đừng sợ, bố.

BỐ JOHNNY: (giận dữ) Tại sao họ rêu rao cho mọi thứ trừ những gì hay nhất? Tại sao họ tự hủy hoại chính mình bằng cách chạy theo đuôi những thứ thuộc về cái chết, và ném bỏ bên lề mọi thứ của cuộc đời? Ta không sao hiểu nổi. Không còn hy vọng cho bất kỳ ai nữa rồi.

JOHNNY: Chắc chắn là còn mà, bố (giận dữ) Tờ nguyệt san Atlantic là cái thá gì kia chứ?

BỐ JOHNNY: (nổi giận) Cút đi, Johnny. Cút đi. Hãy cút đi.

JOHNNY: (cũng nổi giận) Được rồi, bố. (Nó đi vòng ra sau nhà, xuất hiện ở phiá bên kia, nhìn bố nó một lúc, rồi hiểu là nó nên tránh xa ông ấy là hơn.)

(Rõ ràng bố Johnny biết tờ nguyệt san Atlantic đã gửi trả lại ông ta những bài thơ. Rõ ràng ông ta không tài nào tin nổi những bài thơ lại bị gửi trả. Cũng rõ ràng đó thật sự là những bài thơ lớn, bởi vì tác giả của chúng là một nhà thơ lớn. Ông ta lồng lộn như một con hổ. Dường như ông muốn kêu lên với toàn thế giới, dù đôi môi ngậm chặt. Cuối cùng, ông xé phong bì trong cơn cuồng giận. Chiếc phong bì rơi xuống. Ông mở xấp bản thảo thơ ra. Một cuộn giấy trắng, nặng, xổ xuống tới thềm cổng. Ông ta đứng, rất cao, rất đỗi tự hào, tự đọc cho mình nghe, lật nhanh những tờ giấy.)

BỐ JOHNNY: (cuồng nộ) A! Lũ điên chúng mày, những tên ngu ngốc đáng thương. (Ông ngồi trên bậc thềm, hai tay bưng lấy mặt. Xấp bản thảo nằm trên thềm cổng. Sau nhiều phút, ông ta đá hất xấp bản thảo khỏi thềm cổng rơi xuống đất, cầm lại tờ báo, đọc các tựa đề. Lặng lẽ, với cơn cuồng giận khôn cùng, tiếng ông rền rỉ sôi sục) Tiến lên đi, giết hết mọi người đi. Khiêu chiến với nhau. Mang hàng ngàn người ra và nghiền nát họ đi. Cả trái tim tội nghiệp, cả linh hồn khốn khổ và thân xác đáng thương của họ. Trao cho họ những kinh tởm xấu xa. Hủy hoại những giấc mơ của họ. Làm cho họ kinh hoàng. Bóp méo họ đi với lòng căm hận thù ghét lẫn nhau. Để viết nên huyền thoại của cuộc đời, lũ điên khùng các ngươi, những kẻ mà sự vĩ đại được đo bằng chính những gì các ngươi hủy diệt. (Johnny lại xuất hiện ở phía bên kia, không bị bố phát hiện. Nó đứng chôn chân, lắng nghe bố nó. Trời bắt đầu sẫm tối.) Bọn lừa đảo các ngươi. Bọn đớn hèn và không còn lòng kính Chúa các ngươi. (Ông đứng, chỉ ngón tay ra, như muốn xuyên nó qua cả thế gian) Tiến lên đi. Nổ những khẩu súng yếu hèn của các ngươi đi. Lũ các ngươi sẽ không giết được mọi thứ đâu. (Lặng lẽ, mỉm cười) Những nhà thơ sẽ còn sống mãi với trần gian.     
                 
                (Nhiều tia chớp lóe lên trong im lặng)

Căn nhà. Bầu trời tối sầm như lúc bắt đầu của một cơn giông. Từ phiá rất xa thỉnh thoảng có tiếng sấm rền rền, và những tia chớp giật. Bố Johnny đứng trên thềm cổng, mỉm cười, một nụ cười ngây ngô, bi thảm, cô quạnh, lẻ loi. Mọi thứ vẫn như trước; xấp bản thảo trên mặt đất, phong bì trên thềm, và cả tờ  báo. Đã nhiều giờ trôi qua.)

BỐ JOHNNY: (lắc đầu một cách ngờ nghệch, không thể chấp nhận sự thật.) Johnny. (ngưng, to hơn một tí). Johnny (ngưng, dịu dàng hơn) Johnny. (gầm lên) Johnny. ( Thằng bé chạy từ sau vòng ra, bẽn lẽn, tới đứng trước mặt bố nó. Bố nó nhìn lên, có ánh lửa trong đáy mắt, thách thức, đắng cay, bướng bỉnh và tràn đầy sức mạnh.)

BỐ JOHNNY: (dịu dàng nhưng đầy sức mạnh ) Con đã ăn sáng chưa?

JOHNNY: (bẽn lẽn) Con không đói, bố ạ.

BỐ JOHNNY: Hãy vào nhà ăn đi con.

JOHNNY: Con không đói mà.

BỐ JOHNNY: Hãy làm như ta bảo.

JOHNNY: Con không ăn đâu, trừ phi bố cũng ăn.

BỐ JOHNNY: Ta không đói.

JOHNNY: Con sẽ chạy xuống tiệm ông Kosak xem có kiếm được chút gì không nhé.

BỐ JOHNNY: (vẻ ê chề. Nắm lấy tay Johnny) Không, Johnny. (Ông ngưng lại, rõ ràng đang tìm cách diễn đạt về họ và về ông chủ tiệm) Johnny? Ta nghĩ chúng ta cần phải có tiền, con à. Ta không thể tiếp tục như thế này được nữa. Nào, giờ đi vào nhà ăn đi con.

JOHNNY: (đi lên bậc thềm) Bố cũng phải ăn đấy nhé. (Nó đi vào nhà.)

(Một tia chớp lóe lên trong im lặng. Một người đàn ông vận âu phục, một đôi vợ chồng trẻ và một em bé trên tay người vợ bước tới.)

NGƯỜI ĐẠI DIỆN: Đây là căn nhà. Giá cho thuê là 6 đô mỗi tháng. Thật sự nó không tốt lắm, nhưng cũng ngăn được mưa gió đấy.

(Bố Johnny nhìn sững mọi người, ánh mắt ông đông cứng lại.)

NGƯỜI ĐẠI DIỆN: (bước tới gần bố Johnny, chìa tay ra, trong lúc đó những người kia tụm lại) Còn nhớ tôi chứ? Tôi đã đến treo tấm biển đấy mà.

BỐ JOHNNY: (vươn thẳng người ) Tôi nhớ. Chào ông.

NGƯỜI ĐẠI DIỆN: (bối rối) À, ông Corey chủ nhà đi ra thị trấn. Và những người này đang tìm thuê một căn nhà. Ngay bây giờ.

BỐ JOHNNY: Tất nhiên rồi. Tôi có thể dọn đi bất cứ lúc nào. Họ có đồ đạc gì không?

NGƯỜI ĐẠI DIỆN: (với gia đình khốn khổ) Ông bà có đồ đạc gì không?

NGƯỜI CHỒNG: Không.

BỐ JOHNNY: (với đôi vợ chồng) Các bạn có thể lấy đồ đạc của tôi dùng. Không nhiều nhặn gì, nhưng sẽ cần đến đấy. Có một cái bếp lò còn khá tốt.

NGƯỜI VỢ: (với phẩm cách của người nghèo) Chúng tôi không muốn lấy đồ dùng của ông đâu.

BỐ JOHNNY: Thôi được. Tôi còn nợ ba tháng tiền nhà. Tôi để lại số đồ dùng này thay cho số tiền nợ vậy. (Người đại diện cố lên tiếng.)

BỐ JOHNNY: Thế được rồi mà. Tôi rất tiếc không có 18 đô tiền thuê nhà. Số đồ dùng còn đáng giá hơn thế. Ông có thể để cho đôi vợ chồng này dùng cho tới khi ông Corey trở về. (với hai vợ chồng) Ông bà muốn xem qua căn nhà không?

NGƯỜI CHỒNG: Nhìn cũng được lắm.

NGƯỜI ĐẠI DIỆN: (cất bước) Thế là nhất trí nhé. (với hai vợ chồng) Giá tiền thuê là 6 đô mỗi tháng. Chúng tôi sẽ trả tiền nước.

BỐ JOHNNY: (với hai vợ chồng) Ông bà có thể dọn tới bất cứ lúc nào.

NGƯỜI CHỒNG: Cám ơn ông rất nhiều. Chúng tôi sẽ quay lại vào chiều nay hoặc ngày mai. (Họ đi, Johnny bước ra với một cái dĩa đựng hai lát bánh mì và một chùm nho nhỏ.)

JOHNNY: Những người này là ai thế bố?

BỐ JOHNNY: Chỉ là những người ghé ngang qua thôi.

JOHNNY: Thế bố đã nói chuyện gì với họ?

BỐ JOHNNY: Chỉ trò chuyện vậy thôi, Johnny.

JOHNNY: (hét lên, rất giận) Đừng buồn, bố ạ.

BỐ JOHNNY: (quay lại nhìn nó với vẻ trìu mến, kinh ngạc, thán phục và sung sướng, cười lên đột ngột) Ta không buồn, Johnny. Cứ để thế gian là thế gian, và Chúa yêu thương tất cả mọi người.

JOHNNY: (vui vẻ) Vậy thì tốt lắm. Chúng ta ăn đi bố. (Nó đặt cái dĩa trên bậc thềm cao nhất. Họ ngồi xuống bên nhau và bắt đầu ăn trong im lặng, nhìn nhau. Thằng bé nhìn bố nó qua khóe mắt như lúc nó nhìn mặt trời, bố nó nhìn lại nó cũng theo kiểu đó. Thằng bé mỉm cười. Người bố cũng mỉm cười.)

JOHNNY: Bố thích nho chứ bố?

BỐ JOHNNY: Dĩ nhiên là thích.

JOHNNY: Bố?

BỐ JOHNNY: Gì vậy con?

JOHNNY: Thật sự nó giống như nhà tù hở bố?

BỐ JOHNNY: Có lúc bố chắc là như thế. Có lúc bố lại biết là không phải.

JOHNNY: Là sao bố?

BỐ JOHNNY: Ta cho là nó chỉ 50 phần trăm như thế thôi, Johnny. Con biết không. Nó là cả hai.

JOHNNY: Ý con là, bố có nghĩ rằng có đôi lúc ông ấy sẽ nhớ nhà không bố?

BỐ JOHNNY: Ta chắc là như thế.

JOHNNY: Con ước gì ông quay lại đây.

BỐ JOHNNY: Ta muốn gặp lại ông ấy.

JOHNNY: Lúc nào con cũng nhớ ông.

BỐ JOHNNY: Ta cũng thế. Ta sẽ nhớ tới ông mãi.

JONNNY: Con cũng sẽ nhớ mãi. Ông ấy buộc phải trở về đó hở bố?

BỐ JOHNNY: Ta đoán là như vậy.

JOHNNY: Hình như ông thích chàng trai đó.

BỐ JOHNNY: Ý con muốn nói chàng trai đã tới đưa ông ấy đi phải không?

JOHNNY: Vâng, bố biết không. Cái anh chàng đó ăn nói khéo léo cứ như là anh ta đang đứng trước một đám khán giả vậy.

BỐ JOHNNY: Anh ta tốt thôi. (Chỉ còn một trái nho trong dĩa.)

JOHNNY: Nào, cầm lấy đi bố.

BỐ JOHNNY: (vui vẻ) Không, của con đấy Johnny. Ta đã đếm rồi.

JOHNNY: Được rồi, bố. (Nó cầm trái nho cuối cùng cho vào miệng) Có phải thế là ăn cắp không bố?

BỐ JOHNNY: (châm biếm) Có người nói là phải, có người nói là không phải. (bi kịch) Ta cho là không phải. (hét lên) Con đã hái nó ở vườn nho, phải không?

JOHNNY: Đúng là con hái nó ở vườn nho, bố ạ.

BỐ JOHNNY: (châm biếm) Vậy thì rất không thể xem đó là ăn cắp.

JOHNNY: Vậy khi nào thì là ăn cắp hở bố?

BỐ JOHNNY: Cách mà ta nhìn nhận nó, Johnny ạ, chỉ là trộm cắp ở nơi nào có sự phá hoại không cần thiết hay sự độc ác đối với một người vô tội, bởi thế, một người không phải là vô tội thì không xứng đáng dược hưởng lợi hay quyền gì hết.

JOHNNY: Ồ, (ngưng) Tốt, nếu đó không phải là ăn cắp, con nghĩ là con sẽ đi tìm thêm một ít. (Nó đứng lên) Chẳng bao lâu nữa sẽ chẳng còn gì hết. (đi ra)

BỐ JOHNNY: (khi thằng bé đã đi, cười lên) Ôi, con trai của ta. Lạy Chúa, ta thật may mắn. Ta thật là hạnh phúc. (Ông nhặt xấp bản thảo lên, nhét vào túi áo khoác và đi xuống phố.)

Trong cửa tiệm của Kosak. Kosak lại cũng đang gối đầu vào cánh tay ngủ gật. Cửa tiệm trông có vẻ nghèo nàn hơn trước. Gia đình này có lẽ đã phải ăn cả các hàng hoá   dành để bán. Bố Johnny bước vào lặng lẽ, gần như hổ thẹn. Kosak ngẩng đầu lên, chớp mắt, đứng dậy.)

BỐ JOHNNY: (kẻ có lỗi) Tôi là bố thằng Johnny.

(Hai người đàn ông chăm chú nhìn nhau một lúc, mỗi người đều có vẻ vui sướng, bối rối, xúc động, hài lòng và giận dữ vì cùng những điều xấu của thế gian: sự tham lam, lừa lọc, xấu bụng, bất công. Họ bắt đầu mỉm cười, rồi bắt tay nhau nồng nhiệt.)

KOSAK: Tôi nhận ra ông. Johnny có nói cho tôi nghe về ông. Đó là một niềm vinh dự.

BỐ JOHNNY: Ông thật là tốt bụng.

KOSAK: Tôi không biết.

BỐ JOHNNY: (chậm rãi) Tôi đến để chia tay. Để xin lỗi. Để cám ơn ông.

KOSAK: (hối hả) Ông sẽ không đi xa chứ?

BỐ JOHNNY: Tôi rất tiếc là có.

KOSAK: Tất cả chúng tôi sẽ nhớ Johnny.

BỐ JOHNNY: Tôi không có tiền. Tôi còn thiếu nợ ông.

KOSAK: Không sao đâu.

BỐ JOHNNY: Có thể tôi không gặp lại ông nữa. (Ông lôi xấp bản thảo thơ ra khỏi túi. Vẻ đầy sức mạnh.) Tôi là một nhà thơ. Đây là một số thơ của tôi. Tôi không đưa nó cho ông để gán vào số tiền nợ. Tiền là chuyện khác. (khẩn khoản) Ông có vui lòng nhận nó không?

KOSAK: (thành thật) Tôi không thể nhận thơ của ông được. (ngưng)

BỐ  JOHNNY: Tôi mong ông làm ăn phát đạt.

KOSAK: Mọi người không có tiền. Tôi không biết tôi sẽ làm sao để lấy thêm hàng đây nữa.

BỐ  JOHNNY: Tôi rất tiếc.

KOSAK: Vào mùa đông còn tệ hơn. Những hộ đóng gói đều đóng cửa. Không có việc làm. Lẽ ra tôi phải làm cho họ cái gì đó nếu có thể, nhưng mùa đông này tôi không có tiền để lấy hàng mới. Có thể tôi sẽ đóng cửa tiệm. Hầu như không còn đủ cho gia đình chúng tôi.

BỐ  JOHNNY: (xúc động, giận) Những bài thơ này, để tôi nói cho ông biết, là những bài hay nhất mà tôi từng viết, tôi muốn để nó lại cho ông.

(Esther, con gái Kosak, một cô bé xinh đẹp 7 tuổi, đi vào phòng từ phía sau.)

KOSAK: Đây là Esther, con gái tôi. Esther, đây là bố của Johnny.

ESTHER: Johnny có kể về bác cho cháu nghe.

BỐ JOHNNY: (thật sự hài lòng nhưng xấu hổ) Chào cháu.

KOSAK: Họ sẽ đi xa.

ESTHER: Ồ!

BỐ JOHNNY: Johnny sẽ nhớ đến cháu.

(Đôi môi cô bé run run, nước mắt trào ra. Nó quay lưng chạy ra khỏi cửa tiệm.)

KOSAK: Mọi thứ đều như thế cả.

BỐ JOHNNY: Chúng là trẻ con mà.

KOSAK: Vâng, nhưng đó là cách khởi đầu, và nó không bao giờ thay đổi. Chỉ có phụ nữ là không bao giờ học được cách tin vào nó.

BỐ JOHNNY: Ông sẽ đưa những bài thơ này cho nó nhé.

KOSAK: Xin sẵn lòng. Không sao đâu. Nó sẽ khóc một lúc, nhưng không sao đâu.

BỐ JOHNNY: Đây (đưa Kosak tập thơ) Ông giữ những bài thơ này là làm một điều tốt cho tôi. (nói to, với Chúa và toàn nhân thế) Ông thấy không, thơ phải được đọc mới là thơ. Có lẽ tôi chỉ xứng đáng có một độc giả. Nếu là như vậy, tôi muốn người đó chính là ông.

KOSAK: Cám ơn ông. Tôi không xứng đáng đâu.

BỐ  JOHNNY: (mỉm cười) Tạm biệt.

KOSAK: Tạm biệt.

(Bố Johnny ra khỏi cửa tiệm. Người chủ tiệm lấy đôi kính ra khỏi túi, mang vào, mở xấp giấy ra, và đứng giữa gian phòng, bắt đầu đọc, dịu dàng, thì thầm, môi mấp máp. Những biểu hiện trên nét mặt ông thay đổi. Mưa bắt đầu rơi. Esther, con gái của ông quay lại.)

KOSAK: (đọc một trong số những bài thơ một cách lặng lẽ)

Từ lòng đất thẳm sâu
Giữa muôn trùng nước biếc
Thân ta trói buộc vào
Đá hoa cương thảm thiết
Ta vẫn nhớ, nhớ hoài
Em hiền dịu ngày qua
Và em hãy nhớ ta
Và em, hãy nhớ ta...

(Cô bé khóc lên nức nở, người cha quay lại, bước tới vỗ về nó.)

Trong phòng ăn. Ở một thời điểm sau đó ít lâu. Bố Johnny ngồi ở bàn, nhìn qua một trang rời trong bản thảo. Mưa vẫn đang rơi. Thỉnh thoảng, ông đứng lên, tới bên cửa sổ.

BỐ JOHNNY: Đã có chuyện quái quỷ gì xảy ra với nó rồi không biết? (Ông ta quay lại chỗ để xấp bản thảo, ngó qua vài bài thơ, trở nên nóng nẩy, quẳng chúng xuống, và lại tới bên cửa sổ. Rồi bước tới bước lui, chờ đợi. Cuối cùng, Johnny chạy ào lên thang gác, lao vào nhà, gấp rút đóng ập cửa lại. Nó thở hổn hển và sợ hãi. Nó mang về 4 chùm nho đỏ tím cỡ trung, nửa chục phúc bồn tử đen và hai trái thạch lựu.)

JOHNNY: (thở hổn hển, xúc động) Con phải giấu chúng ở đâu, bố?

BỐ  JOHNNY: Có chuyện gì thế, Johnny?

JOHNNY: Bố đã bảo đó không phải là ăn cắp mà bố.

BỐ JOHNNY: (bực mình và nôn nóng) Ừ! Không phải.

JOHNNY: Thế con chó của người chủ trại là sao vậy?

BỐ  JOHNNY: Con đang nói cái gì vậy? Con chó nào của người chủ trại?

JOHNNY: Cái con chó đã đuổi theo con suốt quãng đường về nhà.

BỐ JOHNNY: Chó à? Ý con muốn bảo là có một con chó rượt theo con sao? Nó như thế nào vậy?

JOHNNY: Con không dịp để nhìn kỹ nó, nhưng con cho rằng đó là một chó to xù đấy.

BỐ JOHNNY: (rất giận vì chuyện đáng buồn này) Con vật khốn kiếp đó có cắn con hay làm gì con không, Johnny?

JOHNNY: Không có, bố. Nhưng con nghĩ nó có thể làm chuyện đó bất cứ lúc nào.

BỐ JOHNNY: Nó có sủa con không?

JOHNNY: Không thể nói chính xác là sủa.

BỐ JOHNNY: Thế chuyện gì đã xảy ra?

JOHNNY: Con đã chạy suốt quãng đường, còn nó thì đuổi theo con.

BỐ JOHNNY: Bây giờ nó đâu rồi?

JOHNNY: Con nghĩ là nó ở ngoài cửa. Bố chắc là không phải mình ăn cắp chứ, bố?

BỐ JOHNNY: (giận dữ, ăn 3,4 trái nho) Dĩ nhiên là không phải. Ta sẽ tính sổ con chó đó. Không một người nào hoặc quái thú nào có thể làm cho bố con sợ, hãy nhớ lấy điều đó, Johnny. Hãy luôn luôn nhớ điều đó. (tới cửa sổ một cách thận trọng, nhìn ra.)

JOHNNY: Có nó ngoài đấy không bố?

BỐ JOHNNY: Chỉ có một con cún con, Johnny. Ta cho là nó đang ngủ.

JOHNNY: Con biết mà. Nó là con chó của người chủ trại, nó đang chờ con đấy.

BỐ JOHNNY: Nó không lớn lắm đâu, Johnny.

JOHNNY: Vâng, nhưng nếu nó là của người chủ trại, nếu đó là ăn cắp thì sao bố?

BỐ JOHNNY: Sao, con chó nhỏ xíu đó không thuộc về ai cả, Johnny à, ta cuộc là nó đang tìm bạn đó thôi.

JOHNNY: Nó đã đuổi theo con suốt, bố có chắc là thế không?

BỐ JOHNNY: Chắc chắn. Ta bảo đảm đấy, Johnny. Ta không phải là loại thi sĩ hư vô. Ta biết mọi điều. (Con chó bắt đầu gầm gừ và sủa. Bố Johnny nhảy lùi khỏi cửa sổ, sợ hãi. Johnny nhảy dựng lên, hoảng hốt, không nói nên lời.)

JOHNNY: (thì thào) Có gì vậy, bố?

BỐ JOHNNY: Có ai đó đang đi tới, ta cho là thế.

JOHNNY: Bố thấy không. Đúng là ăn cắp rồi. Đó là người chủ trại. (Nó chạy tới cái bàn gom những thứ trái cây. Bà nó chạy vào phòng.)

BÀ NỘI JOHNNY: (tiếng Armenia) Có gì mà ầm ỉ thế, trong cơn mưa?

BỐ JOHNNY: Sh..suỵt. (Johnny mang mớ trái cây ra khỏi phòng ăn; quay lại, sợ chết khiếp. Con chó vẫn gầm gừ và sủa. Bố Johnny thậm chí còn sợ hãi hơn cả nó.)

JOHNNY: (đau khổ, thách thức) Chết tiệt thật. Bố, giờ thử nhìn xem chúng ta lộn xộn ra sao.

BỐ JOHNNY: Ước gì ta có một điếu thuốc.

JOHNNY: (giờ lo cho bố nó, nói với bà bằng tiếng Armenia) Còn thuốc hút không bà? (Bà nó chạy vào phòng bên. Con chó ngưng  sủa.)

JOHNNY: Bố thấy không? Đó chắc là ông chủ trại. Con trốn ở đâu bây giờ? Đừng mở cửa nhé bố .

BỐ JOHNNY: Mở cửa? Lấy cái bàn kia giúp bố. (Họ đẩy cái bàn sát vào cánh cửa, rồi rón rén đi về phía giữa phòng. Bà nội chạy vào với một điếu thuốc và một que diêm, trao cho bố Johnny. Ông đốt điếu thuốc, rít sâu, rồi vươn thẳng người lên.)

BỐ JOHNNY: (bi thảm) Ta là người mang trái cây về, con hiểu chứ, Johnny?

JOHNNY: Đừng mở cửa, bố. (Bố nó xách một chiếc ghế đẩu, đi rón rén lại chỗ cái bàn, đặt lên để làm tăng thêm sức nặng. Johnny lấy một cái ghế dài đặt lên. Bà cụ đặt thêm cái bình, bố nó thêm vào cái công sự đó ba cuốn sách. Thật sự, trong khi tiếng gõ cửa vẫn tiếp tục, cả gia đình dần dần chất tất cả mọi đồ đạc trong nhà phiá sau cánh cửa.)

BỐ JOHNNY: Đừng sợ, Johnny.

JOHNNY: Ông ấy không thể vào được, phải không bố?

BỐ JOHNNY: Ta không nghĩ thế.

(Người bà, người bố và đứa con đứng bên nhau trong căn phòng trống, thánh đố với toàn thế giới. Một lúc lâu im lặng, đầy sợ hãi, giận dữ, buồn thương và thách thức. Sau 30 giây, sự im lặng vỡ toang bởi tiếng sáo solo bài “Tim tôi ở cao nguyên”. Mặt trời lại hiện ra.)

JOHNNY: (hét lớn) Đó là ông Macgregor.

BỐ JOHNNY: (chạy tới chỗ cửa sổ, nhấc lên và hét to với Macgregor.) Xin chào mừng, ông Macgregor. Johnny, dọn dẹp đồ đạc đi con. (Bố Johnny trở lại cái công sự giúp bà nội và Johnny thu dọn đồ đạc. Cuối cùng mọi thứ đã được dọn ra khỏi đường đi. Bố Johnny mở cửa.)

Macgregor vẫn đang thổi sáo, tiến vào nhà, dẫn đường ông là con chó, một con chó con hoang nhỏ xíu. Con chó chạy loăng quăng, mừng rối rít. Đôi mắt của Macgregor tràn đầy những nỗi niềm. Johnny chạy vào bếp rồi quay ra với chiếc dĩa đựng trái cây, và một bình nước. Macgregor kết thúc bản solo. Mọi người đứng lặng trong giây lát, ngay cả con chó. Johnny đưa bình nước mời Macgregor.)

MACGREGOR:(mệt mỏi) Lần này thì không, Johnny.

BỐ JOHNNY: Xin chào mừng đã tới, bạn của tôi.

MACGREGOR: Ta đã bỏ trốn. Họ sẽ đuổi tới đây ngay, nhưng ta không trở lại đó đâu. Họ đã giấu đi chiếc sáo của ta. Họ cố buộc ta phải nằm trên giường. Họ bảo rằng ta đau ốm. Ta không ốm đau gì cả; Ta chỉ già. Ta biết những ngày ta sống trên đời chỉ còn đếm trên đầu ngón tay thôi. Ta muốn sống những ngày còn lại với các bạn. Đừng để họ mang ta về.

BỐ JOHNNY: Tôi sẽ không để họ mang ông đi đâu. (Ông ta kéo một chiếc ghế mời ông già ngồi.) Hãy ngồi xuống đi. (Mọi người ngồi. Macgregor nhìn quanh mọi người.)

MACGREGOR: Được gặp lại các bạn thật là tốt quá.

JOHNNY: Tim của ông vẫn còn ở cao nguyên chứ hở ông?

MACGREGOR:(gật đầu) Vẫn ở cao nguyên, con trai.

BỐ JOHNNY:(nổi giận) Johnny!

JOHNNY: (đau khổ) Gì ạ?

BỐ JOHNNY: Hãy câm miệng đi.

JOHNNY: Vì sao thế?

BỐ JOHNNY: Vì sao à?  Sao đôi lúc con lại ngu xuẩn đến vậy chứ? Con không thấy ông Macgregor đang rất mệt sao?

JOHNNY: (với Macgregor) Phải vậy không ông?

MACGREGOR: (gật đầu) Nhưng mẹ của con đâu, con trai?

JOHNNY: Mẹ cháu chết rồi.

MACGREGOR: (hầu như tự nhủ) Không phải chết, Johnny. (Ông lắc đầu) Mà là ở cao nguyên.

BÀ NỘI JOHNNY: (với bố nó) Ông ta nói gì thế?

BỐ JOHNNY: (lắc đầu) Không có gì. (với Macgregor) Ông ăn chút gì chứ?

MACGREGOR: (nhìn cái dĩa) Chỉ một trái nho thôi. (Ông ngắt một trái nho cho vào miệng. Đột ngột quay lại, giật mình.) Họ đang tới, phải không?

BỐ JOHNNY: Đừng sợ, bạn của tôi. Hãy nằm xuống nghỉ ngơi đi. (Bố Johnny dìu ông tới chiếc giường. Ông già nằm duỗi, ngửa mặt lên. Bố Johnny quay trở lại bàn. Không ai ăn cả. Ông già đột nhiên nhổm người lên. Không có gì cả. Ông đứng dậy, bước tới bàn.)

MACGREGOR: Ông sẽ không để cho họ mang ta đi chứ?

BỐ JOHNNY: Không đâu. (Ông ta bẻ một trái thạch lựu ra, trao cho Macgregor một nửa.) Hãy cố ăn chút gì đi.

MACGREGOR: Cám ơn, bạn của tôi. (Ông ăn một ít lựu. Có tiếng gõ ở cửa, Macgregor nhổm lên, giận dữ.)

MACGREGOR: (gầm lên) Các ngươi không được mang ta về. Ta cảnh cáo các ngươi. Ta sẽ gieo người mà chết. Ta thuộc về nơi này, với những người này.

BỐ JOHNNY: (sợ hãi)  Chúng ta mở cửa chứ?

MACGREGOR:         (tràn đầy mạnh mẽ) Dĩ nhiên là chúng ta mở cửa.

(Ông bước tới cửa, mở ra. Đó là Rufe Apley, thợ mộc, đang hơi run sợ vì cơn giận dữ của Macgregor.)

RUFE  APLEY: Xin chào, ông Macgregor.

JOHNNY: Ai đó?

RUFE APLEY: Rufe Apley đây mà.

MACGREGOR: Chào anh, Rufe.

BỐ JOHNNY: (ở cửa) Vào nhà đi, Rufe. (Rufe bước vào. Anh ta mang tới một ổ bánh, một thỏi xúc xích  và hai quả trứng.)

RUFE: Tôi đang ngồi không ở nhà thì chợt nghe thấy tiếng nhạc. Tôi chắc là không ai ngoài ông Macgregor.

MACGREGOR: Ta rất vui là anh vẫn nhớ.

RUFE: Không người nào quên được bài nhạc đó, ông Macgregor ạ. Tôi mang tới những thứ này.

MACGREGOR: (nhận lấy và đặt lên bàn) Cám ơn, bạn của tôi, cám ơn.

(Lại có tiếng gõ cửa. Đó là Sam Wallace, người tuần đường hỏa xa, với toàn bộ trang bị trên người: áo trùm, đồ nghề đeo quanh người, đai da, giày đinh, mọi thứ. Anh ta có phó mát, cà chua và củ cải.)

WALLACE: Tôi biết chính là ông Macgregor mà. Tôi tự nhủ, tôi sẽ tới đây, với một ít thức ăn gì đó.

MACGREGOR: Đây thật sự là một điều bất ngờ thú vị.

RUFE: (rõ ràng là muốn nói đôi điều) À, ông Macgregor này?

MACGREGOR: Vâng, gì thế bạn của tôi? Hãy nói đi. Ta là một con người đơn giản, chẳng khác gì anh cả.

RUFE: Em vợ tôi và gia đình nó đang ở bên ngoài. Tôi biết họ rất muốn nghe ông chơi lại. Và còn có một số người khác nữa.

MACGREGOR: (ung dung) Dĩ nhiên là ta sẽ chơi. Ta đã hơn tám mươi rồi, và không còn sống được bao lâu nữa. Trước lúc ra đi, ta muốn trở thành một thành viên của các bạn, những người còn sống sau khi ta đã chết. Có cả bọn trẻ con ngoài đó chứ?

RUFE: Bảy đứa. Chúng là con của em vợ tôi.

(Ba bốn người hàng xóm nữa bước vào, mang theo thức ăn. Macgregor cầm ống sáo lên. Mọi người theo ông ra ngoài cổng, trừ bố Johnny. Macgregor bắt đầu chơi lại bản nhạc solo. Lần này, ông quá già yếu và mệt nhọc để chơi thật hay, nhưng rồi ông cũng kết thúc trọn vẹn bài nhạc. Bố Johnny đi lại trong phòng, mỉm cười, rồi lại cau mày, lòng tràn ngập yêu thương chốn này. Cánh cửa thông ra bếp lặng lẽ mở ra, Esther Kosak đứng trên ngạch cửa. Bố Johnny quay lại và trông thấy nó. Nó không còn khóc nữa. Nó giữ một vật gì đó giữa nắm tay.)

BỐ JOHNNY: Chào cháu, Esther.

ESTHER: Johnny đâu hở bác?

BỐ JOHNNY: Ta sẽ kêu nó vào. (Ông đi ra chỗ cổng. Đứa bé gái đứng một mình trong nỗi buồn và sự lẻ loi kinh khủng. Một lúc sau Johnny chạy ùa vào, xúc động, nhưng mau chóng bình tĩnh lại khi nó cảm nhận được tâm trạng của cô bé.)

JOHNNY: Chào Esther.

ESTHER: Chào Johnny.

JOHNNY: Có chuyện gì vậy?

ESTHER: Bố em đã đọc cho em nghe những bài thơ.

JOHNNY: Cái gì?

ESTHER: (chìa tay ra) Đây. Đó là tất cả những gì em có. (Johnny cầm lấy một nắm tiền xu) Em đã để dành cho ngày Lễ giáng sinh. (Nó bắt đầu khóc, quay đi và chạy ra khỏi nhà.)

JOHNNY: (xúc động mạnh và cuồng giận, cảm nhận một cái gì đó thật sâu sắc, đẹp đẽ và khủng khiếp) Lạy Thánh Moses. (Nét mặt nó hiện ra một vẻ bi thương, nó bắt đầu khóc. Nó ném những đồng xu vào vách và ngồi bệt xuống đất, nức nở.) Ai cần những thứ này chứ? (Bố Johnny quay trở lại.)

BỐ JOHNNY: Johnny. (tới gần hơn) Johnny?

JOHNNY: (nức nở, giận dữ) Nó mang tiền tới cho con.

BỐ JOHNNY: Khóc không có ích gì con ạ.

JOHNNY: (nhảy lên) Ai khóc đâu chứ? (Nó khóc, to hơn.)

BỐ JOHNNY: Đi rửa mặt đi con. Không có gì đâu.

JOHNNY: (đi ra) Ở đâu đó đã có cái gì đó sai lầm.

(Macgregor kết thúc khúc solo, mọi người im lặng, bối rối và biết rằng đã có một cái gì đó sai lầm. Có tiếng Macgregor phát biểu một lúc.)

MACGREGOR: (yếu ớt) Những năm tháng, các bạn của ta. Ta đã đi tới điểm kết thúc của chúng rồi. Ta rất tiếc không còn chơi cho các bạn nghe được nữa. Cám ơn các bạn. Cám ơn.

(Bố Johnny đi lại trong phòng. Ông ngồi xuống bàn và nhìn những thứ thức ăn. Macgregor và bà nội Johnny quay vào đến ngồi bên bàn. Con chó nằm  ở  một góc nhà.)

MACGREGOR: (nhấc bình nước lên, uống một ngụm) Họ không để cho ta chơi. (uống thêm một ngụm) Họ giấu ống sáo của ta. (uống thêm một ngụm) Họ bảo ta ốm yếu. (uống thêm một ngụm)  Ta khỏe như một con bò mộng. Nếu họ đến mang ta đi, ta sẽ giả vờ chết.  Ta sẽ đóng một cảnh chết trong kịch Vua Lear. Ta sẽ đóng tất cả những màn chết chóc.

(Johnny nghiêm trang quay vào nhà. Tất cả mọi người ngồi quanh bàn. Không ai ăn nổi chút gì trừ bà cụ. Một khoảnh khắc dài im lặng. Bà cụ thôi không ăn nữa.)

BÀ NỘI JOHNNY: Có chuyện gì thế? Sao mà buồn thảm thế này? (Macgregor đứng lên.)

MACGREGOR: (ngâm nga, nhớ lại những lời kịch của Shakespeare, và tự ứng tác thêm một ít) Gió đâu, hãy thổi tung lên, và khiến cho đôi má ngươi hằn xuống. Cuồng nộ. Thổi tung lên. Hỡi cuồng phong bão tố, hãy trào dâng lên tràn ngập những lầu đài, nhấn chìm những gác chuông!  Hãy phun lửa diêm sinh, lửa hành quyết để thiêu cháy mái đầu bạc trắng của ta đi. Ta coi khinh các ngươi, phỉ nhổ vào ngọn lửa, cơn mưa lũ. Ta không bao giờ trao cho ngươi vương quốc, gọi ngươi là con ta. Ta đứng đây, kẻ nô lệ của ngươi, một ông già yếu ớt, hao gầy và bị rẻ khinh. Tồn tại hay không tồn tại...(bi thảm) Tồn tại – tồn tại – cái gì ? Một tên ngu xuẩn? Một kẻ bị số mệnh cợt đùa? Bị xa lìa quê hương, lửa ấm và tình thương mến?

Ta, một kẻ bị gây tội lỗi hơn là người gây tội lỗi. Vũ khí! Vũ khí đâu! Gươm đâu! Lửa đâu! Hãy hủy diệt nơi này. Mấy con chó nhỏ của ta đâu, Tray, Blanche, Sweetheart. Coi kìa? Sao chúng lại sủa vào ta? Ôi, trên con đường này đầy dẫy sự điên loạn, không có gì hơn. Hãy để ta tránh xa nó. Tâm trí ta bắt đầu đảo lộn (Johnny bước tới bên ông, quỳ xuống.)  Lại đây, con trai ta, tội cho con quá. Một nghệ thuật lạnh lùng? Hãy để ta được yên ổn một mình! Tim ta sẽ nát tan? Và ta, kẻ ngu khờ tội nghiệp sẽ bị treo lên. Không, không, không còn cuộc đời nữa rồi! Tại sao một con chó, một con ngựa, một con chuột lại có cuộc sống mà ta thì không được hưởng chút gì? Ngươi sẽ không còn đến nữa, không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ! Cầu xin ngài hãy cởi chiếc cúc này ra – cám ơn ngài – (giơ ống sáo ra) Ngươi có trông thấy gì không? Hãy nhìn đi. Nhìn đi, này, nhìn đi!

(Trong khi Macgregor đang diễn, Johnny trở lại chỗ những đồng xu nằm rải rác, nhặt từng đồng một lên, nhìn chúng. Căn phòng hoàn toàn im lặng. Có tiếng một con ngựa và cỗ xe đi qua trên phố, rồi tiếng bước chân, tiếng gõ cửa. Bố Johnny đi tới mở cửa ra. Đó là Philip Carmichael và hai người bảo vệ từ viện dưỡng lão. Hai người bảo vệ đứng nghiêm ở cửa.)

CARMICHAEL: Chúng tôi nghe thấy ông ấy diễn. Ông ấy đã bệnh nặng lắm rồi. Chúng tôi đến mang ông ấy về.

BỐ JOHNNY: Xin mời vào. (Ông vào, tới gần Macgregor.) Ông Macgregor! (không có tiếng trả lời)

BỐ JOHNNY: (lớn tiếng hơn) Ông Macgregor! (tới gần hơn) Ông Macgregor. Ông Mac- (Carmichael vội đến kiểm tra ông.)

CARMICHAEL: Ông ấy chết rồi.

JOHNNY: Không phải đâu. Ông chỉ đóng kịch mà.

BỐ JOHNNY: Lạy Chúa, ông đã là nghệ sĩ diễn kịch Shakespeare vĩ đại nhất trong đời.

CARMICHAEL: Tôi rất tiếc đã xảy ra chuyện này ở đây.

BỐ JOHNNY: Tại sao không? Tại sao không là ở đây? Đây chính là nơi ông cụ muốn nó xảy ra.

JOHNNY: Ông chỉ đóng kịch thôi bố. Ông không chết. (Nó tới gần Macgregor.) Phải không ông? (Dĩ nhiên không có lời đáp)

CARMICHAEL: Chúng tôi sẽ mang ông ấy về.

BỐ JOHNNY: Đây là ống sáo. Hãy chôn nó cùng ông ấy.

(Bố Johnny ôm Macgregor lên, mang ra. Hai người bảo vệ mang ông xuống đường. Ánh mặt trời hoàng hôn đỏ rực lên như lúc bình minh ở đầu vở kịch. Chiếc xe ngựa lăn bánh, Có một khoảnh khắc im lặng khác thường, và văng vẳng từ  một chốn rất xa là tiếng sáo solo. Có tiếng gõ cửa. Bố Johnny mở cửa. Đó là hai vợ chồng trẻ. Đưá bé đang khóc. Họ vào nhà.)

NGƯỜI VỢ: Thằng bé mệt và buồn ngủ.

BỐ JOHNNY: Căn nhà đã sẵn sàng (với Johnny) Hãy thu dọn những thứ của con. (với bà cụ, tiếng Armenia) Chúng ta đi thôi. (Ông lôi một cái va-li từ  bên dưới cái giường ra, quăng các bài thơ, quyển sách, phong bì, ổ bánh và vài thứ thức ăn khác vào đó. Bà cụ choàng một chiếc khăn quanh đầu và vai. Johnny bỏ lại tất cả đồ chơi của nó, chỉ mang theo nắm tiền xu. Em bé nín khóc. Con chó chạy loăng quăng theo Johnny. Tiếng nhạc lớn dần.)

NGƯỜI CHỒNG: Rất cám ơn ông.

NGƯỜI VỢ: Ông có nơi nào để đến không?

BỐ JOHNNY: Có, thưa bà. Tạm biệt.

HAI VỢ CHỒNG: Tạm biệt. (Họ ra khỏi nhà, lên chỗ con đường.)

JOHNNY: Bố nghĩ chúng ta sẽ đi đâu, bố?

BỐ JOHNNY: Đừng bận tậm, Johnny. Con cứ việc theo ta.

JOHNNY: Con không để ý đến những cái tên đâu, bố. Nhưng ở đâu đó đã có một cái gì đó sai lầm.

(Tiếng nhạc lớn hơn. Họ lên đường.)






  




**********
                                                   Mời bạn vào địa chỉ này nghe bài hát:

 

My Heart's In The Highlands
Robert Burns

Farewell to the Highlands, farewell to the North,
The birth-place of Valour, the country of Worth;
Wherever I wander, wherever I rove,
The hills of the Highlands for ever I love.

My heart's in the Highlands, my heart is not here;
My heart's in the Highlands a-chasing the deer;
A-chasing the wild-deer, and following the roe,
My heart's in the Highlands wherever I go.

Farewell to the mountains high covered with snow;
Farewell to the straths and green valleys below;
Farewell to the forests and wild-hanging woods;
Farewell to the torrents and loud-pouring floods.

My heart's in the Highlands, my heart is not here;
My heart's in the Highlands a-chasing the deer;
A-chasing the wild-deer, and following the roe,
My heart's in the Highlands wherever I go.







                           


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét