PHẦN HAI
Những ghi chép của H.
****
ghi chép 1
“Khi xác nhận
con người như là một thực thể có ý thức, chúng ta không thể coi nó là một thực
thể cách ly với hiện thực xã hội, là một thực thể tách rời lịch sử như các
triết thuyết duy tâm chủ trương. Con người, và sự phát triển của con người bao
giờ cũng gắn bó hữu cơ với tiến trình lịch sử, là yếu tố duy nhất cấu thành
lịch sử. Nói khác đi, con người là thực thể duy nhất tạo nên lịch sử. Con người là con người của
xã hội, thừa hưởng các đặc tính xã hội, và sáng tạo nên đặc tính xã hội. Không
thể nói về con người với ý nghĩa một cá thể đứng ngoài lề xã hội.” – Thầy Hà
kết thúc bài giảng. Ông nói thêm: “Thứ hai sau chúng ta sẽ thảo luận về đề tài
này. Các bạn nên tìm đọc các tài liệu, sách báo liên quan để đóng góp tích cực
cho buổi thảo luận. Chào các bạn”.
Nguyên nhét
cuốn vở vào túi dết. Anh nhổm dậy, hòa vào các bạn rời khỏi giảng đường. Một
anh chàng đầu tóc bờm xờm, nét mặt rất khôi hài từ phía sau lấn lên, xô bừa vào
các cô, nhe răng cười khì phớt tỉnh những lời cằn nhằn thốt ra từ những đôi môi
nhỏ nhắn xinh xinh.
- Nè
Nguyên, trưa nay ở lại ăn cơm chiêu đãi với tụi này đi. Về làm gì, chiều lại
đạp lên, phí sức.
- Sẵn sàng
thôi! Vậy thực đơn gồm có những món gì vậy bếp trưởng?
- Như thường lệ. Rau muống luộc, trứng vịt “áp
chảo”. Có cái này là đặc biệt, món tráng miệng tớ mang từ nhà lên – Mật ngọt thiên đường! Ngon hết xẩy!
- Mật
ngọt thiên đường? Là cái gì?
- Ấy,
đừng nôn nóng thế. Cậu chưa biết cái ngon của món mầm đá Trạng Quỳnh sao? Từ từ sẽ rõ.
- Nhưng
nó có trừu tượng như món mầm đá không vậy bồ?
- Yên chí, yên
chí. Là một vật chất tồn tại khách quan.
- Mấy anh
bị nhiễm các khái niệm triết học hơi lậm đó nha -Thảo tham gia, nó trẻ nhất
bọn, trông mặt còn búng ra sữa, cứ như một chú nhóc lớp mười hai - Em cũng có
một món đãi các anh. Món “Mỗi lúc đi xa”!
- Xời!
Cái món của mày xưa như trái đất – Gã đầu tóc bờm xờm nói – Nhưng không sao, để
tao nghiên cứu đổi tên lại cho kêu hơn nghe. Ừm... để xem... Mày phải biết,
thời buổi kinh tế thị trường mà, quan trọng là ở chỗ cái tên gợi cảm, chứ đâu
phải là ở chất lượng hay số lượng. Này Thảo, có lẽ nên gọi là “ Khóc một dòng
sông” đi!
- Khóc một dòng
sông? Sao lại khóc một dòng sông?
- Cái món
kẹo dừa của mày lúc nào cũng chảy nhẽo ra như nước mắt ấy, chẳng khóc một dòng
sông thì ít nhất cũng khóc một bịch
nylon – Gã đưa tay đấm ngực, cảm thán vô cùng lâm ly bi đát – Trời! Phải
tự công nhận mình có khiếu hài hước quá chừng! Than ôi! Trời đã sinh Đỗ hữu Hoài
này sao còn sinh thêm một lô một lốc Bảo Quốc, Duy Phương, Hữu Nghĩa, Quốc
Hòa!... Nếu không thì ta đâu phải đi theo cái nghề khó nhai này. Đáng tiếc!...
Đáng tiếc!…
Cái gã tự
xưng danh là Đỗ Hữu Hoài này luôn luôn có những câu chuyện tiếu lâm trên trời
dưới đất, lại hay thọc ngang hông người khác. Gã tự biên tự diễn xong màn kịch
ngắn rồi quay sang bảo Thảo:
- Thôi,
mày chạy về phòng bắc nồi cơm nghe Thảo. Tao với Nguyên phụ trách công cuộc “má-kịt-tinh”. Mày chưa đủ thâm
niên trong nghề đi chợ đâu, Thảo ạ!
Nói xong, hắn kéo tay Nguyên, cả hai sóng bước
đi ra chợ. Vừa đi, Hoài vừa bô bô diễn thuyết:
- Sau này
khi tốt nghiệp ra trường, có ai đó hỏi tao đã tiếp thu được những kiến thức gì quí
báu nhất trong những tháng ngày mài đũng quần ở trường đại học, tao sẽ trịnh
trọng thưa rằng – Đó là nghệ thuật đi
chợ. Chứ còn gì hơn nữa! Bằng cách đi chợ, thông qua đi chợ, anh sẽ có được
những kỹ năng tuyệt diệu để đối phó với cuộc đời. Ví dụ như tài hùng biện
để mua chịu, ghi sổ, cũng như tài
nghệ trả giá, thương lượng – Tất cả
những thứ này có thể gom chung trong một
thuật ngữ mang tính quốc tế hoá là “ni-gô-sì-ết-sân”... Thuyết phục được má Năm
bán thiếu đâu phải chuyện tầm thường, phải uốn ba tấc lưỡi Tô Tần điệu nghệ lắm
mới được. Mày chưa biết, chứ tụi thằng Thảo, thằng Huy cận biết quá mà! Khả năng đàm phán của tao nhờ đi
chợ mà đã tới bậc thượng thừa...Ơ, rồi kỹ năng phê bình đánh giá, chọn mặt gửi
vàng để có thể lựa được bó rau tươi xanh nhất, con cá tươi rói nhất hoặc cô em
tươi xinh nhất chợ. Rồi kỹ năng giao tiếp với mấy cô em cùng trường đang tay
xách tay ôm đủ thứ. Khi ấy ta sẽ là người ga-lăng hết cỡ, o bế và phục vụ phái
đẹp hết mình. Để chi, để chia bùi sẻ ngọt, chia buồn sớt vui, chia nửa phần
ăn... vân vân và vân vân...
Nguyên cười
tủm tỉm. Quả thật, một tay con trai mà không trải qua cuộc sống ký túc, không ở
gần một cái chợ như chợ Bình Triệu này, thì chưa thể nói là đã nếm đủ mùi của
đời sinh viên. Anh đi thơ thẩn theo Hoài, mặc cho hắn mua bán trêu chọc loăng
quăng. Anh nhìn quanh quất. Buổi trưa chợ hơi vắng, chỉ có lác đác một ít bà
con, còn lại là sinh viên của trường. Hoài chìa cho anh bó rau và bịch nylon
đựng mấy miếng tàu hủ.
- Giờ ra
đầu chợ mua thêm một nải chuối nữa là linh đình thịnh soạn – Hắn nói.
Hai đứa
đi ra. Anh nhìn quanh tìm sạp bán chuối. Chính lúc ấy anh trông thấy cô.
Anh chết
sững. Ánh nắng trưa một ngày tháng Tư chói chang gay gắt bỗng dịu đi. Những âm
thanh, tiếng động rất đỗi ồn ào của cái chợ nhỏ chìm lặng xuống. Như thể có một
bàn tay vô hình nào đó đã gạt nút stop bản nhạc rock sôi động của cái máy
cát-sét khổng lồ là cái chợ Bình Triệu này vậy. Trước mắt anh, mọi con người,
cảnh vật nhòe đi như nền của một bức ảnh chụp xóa phông. Chỉ còn lại một cô gái
tóc xõa bay bay trong gió, chiếc áo vải mong manh lấm chấm tím hoa cà. Một cô gái không đẹp lắm
nhưng thật dịu dàng, thu hút. Anh nhìn cô không chớp mắt.
Cô chợt
bắt gặp ánh mắt của anh, có vẻ hơi ngạc nhiên vì vẻ kỳ lạ của nó. Đôi mắt đen
tròn mở to một thoáng rất nhanh, dò hỏi, tự vấn, rồi nó quay sang long lanh,
chớp nhẹ tỏ vẻ đồng tình với một câu gì đó của cô bạn kế bên. Cô quay lưng đi
về trường. Mái tóc đen mướt, mềm mại trôi như một dòng suối nhỏ xuống vai. Mềm
mại đến nỗi anh thấy lòng chùng xuống, xôn xao một nỗi mơ hồ.
ooo0ooo
Thảo gom chén
bát bỏ vào cái xoong nhỏ, mang đặt ở góc phòng, rồi nó ẹo người, uốn lưng nghe
lốp cốp. Hoài cười khà khà:
- Xem
chừng bộ xương của mày hơi khô nhớt rồi đó Thảo. Mày đúng là thằng lười chảy
thây. Sáng ra nướng cho tới giữa tiết hai mới chịu lò mò xuống lớp. Nói chi đến
thể dục thể thao, rèn luyện cơ bắp để sau này phục vụ cho đất nước, cho xã hội,
cho quần chúng nhân dân, cho đoàn thể cơ quan các ngành các cấp... nhất là cho
bà xã của mày! Bắt đầu từ mai, tao áp dụng kỷ luật chiến trường! Đúng năm giờ
rưỡi là a-lê-hấp, cả phòng phải dậy thao diễn 24 đường võ dưỡng sinh.
Đứa nào lần chần, tao phạt vệ sinh phòng nửa tháng!
Một tên
trẻ tuổi đeo đôi kiếng dày cộp đang vừa nằm xoa xoa bụng, vừa đọc một cuốn sách
rách tả tơi chợt nhổm dậy la to phản đối:
- Ý, đâu
có được anh Hoài! – Tên trẻ tuổi trổ tài lý sự – Vụ này phải đưa ra Hội đồng phòng thương nghị,
rồi biểu quyết, lập thành văn bản, ký tên, “đóng dấu”, rồi ra quán nhậu làm một
chầu thông qua nghị quyết mới bảo đảm thủ tục pháp lý chứ. Anh đừng có chuyên
chế độc tài, tụi em lật đổ anh không tới 30 giây đâu!
Hoài
nghiêm khắc nói:
- Huy cận! [1] Mày là nhà thơ nổi tiếng, là tài sản quí
báu của quốc gia, nhân tài của đất nước, mày lại được hưởng quyền ưu tiên, ưu
đãi đặc biệt đối với những người khiếm khuyết! Ờ...ờ... chiếu theo khoản 2, điều 8, Quyết định số
0001/PKT ngày-tháng-năm-nay của Sếp phòng
về việc thực hiện nghiêm chỉnh
các chế độ cho anh em sinh viên Phòng 217, thì Quyết định này không áp dụng cho
các cá nhân thuộc các trường hợp sau đây: Điểm a - Sếp phòng– mở ngoặc đơn -
tức là tao- Đỗ Hữu Hoài – đóng ngoặc đơn; Điểm b - Người khiếm khuyết về thị
giác, thính giác, xúc giác, tri giác – mở ngoặc đơn - nghĩa là đối với những cá
nhân đêm qua đã say be say bét, không còn biết trời trăng mây nước gì nữa –
đóng ngoặc đơn. Điểm c - Người đang ở trong tình trạng bất khả kháng vì lý do
sức khỏe, thời tiết… vân vân… mà không thuộc trường hợp qui định tại điểm b,
khoản 2, điều 8 của Quyết định này....Vậy thì mày nên khôn ngoan hưởng ứng,
đừng có học đòi chống đối, biểu tình, bạo động làm chi, nghe không Huy cận!
Hoài nói xong
một tràng thao thao bất tuyệt rồi ngưng lại... để thở. Hắn thở xong mấy hơi dài
khoan khoái rồi lại tiếp tục mở máy phát thanh:
- Hôm
nay, các nhân chứng có mặt tại hiện trường đã tường trình về một sự vụ
tai-nạn-lưu- thông-tình-cảm cực kỳ nghiêm trọng! Các nhân chứng đồng nhất trí
sau tai nạn, bạn của chúng ta, đồng chí cựu chiến binh thân mến của chúng ta –
anh Nguyên, đã bị đo ván, mặt mày nám đen, trái tim lủng không biết là bao
nhiêu lỗ... Vậy đề nghị người bị hại kiêm người chủ động tấn công cho biết cảm
tưởng và ý kiến đề xuất với quí hội đồng!
Huy cận lên
tiếng hưởng ứng:
- Đúng
rồi, hôm nay anh Nguyên lạ lắm nghe, cứ như người mất hồn vậy. Lúc nãy, em hỏi
anh cái gì anh có nghe không anh Nguyên ... anh Nguyên!
- Gì đó
Huy cận? – Nguyên
giật mình, đầu óc anh vẫn còn vương vấn hình ảnh cô gái lúc trưa. Quen với tật hay nói dóc của Hoài nên anh cũng chẳng để
tâm, giờ nghe Huy cận gọi giật giọng, Nguyên mới tập trung lại.
- Ấy,
thấy chưa! Hồi nãy em hỏi anh là anh có trốn đi đâu nhậu một mình không mà thấy
mặt mày đỏ bừng, khờ khờ hệt như xỉn rượu,
mà anh có nghe thấy gì đâu .
Nguyên nhe răng cười:
- Ờ, ờ...
lúc đó tao đang mải ngẫm nghĩ nên không nghe rõ, tưởng mày nói với thằng Hoài
chứ.
Hoài xoay lưng qua, nhìn Nguyên:
- Nè Nguyên, mình hỏi nghiêm chỉnh nha, trước giờ
đâu có thấy cậu nhìn đứa con gái nào như
lúc nãy đâu, cậu thích cô ta rồi phải không? Nói thật đi, tụi này ủng hộ
cho.
Nguyên xoay người nằm sấp lại, anh đưa hai tay chống
cằm, nhìn Hoài:
- Cô ta
học khóa mấy vậy, sao từ đầu năm đến giờ tao không gặp nhỉ?
- Mày vô
trường là chui đầu vô lớp, hết giờ lại chuồn về ngay thì làm sao biết được ai
với ai. Con nhỏ này là hoa khôi K.10, tên là Quyên Chi, một bông hồng nhiều gai đấy. Mấy lần trường tổ chức lễ hội,
lần nào nó cũng có tiết mục đơn ca, cả trường ai cũng biết, chỉ có mình mày là
đến bây giờ mới thắc mắc.
Thảo nãy
giờ nằm lim dim, nghe loáng thoáng tên Chi bỗng chồm dậy hỏi Nguyên:
- Ủa! Thì ra là
chị Chi hả anh? Em quen với chỉ. Chỉ hiền lắm đó. Hình như chỉ có nói với em chỉ quê ở Long An thì phải.
- Con bé
dễ thương quá, không biết có bồ chưa – Nguyên nói, bâng khuâng.
- Không rõ, có
điều tao hay gặp nó lên hội trường ngồi học một mình – Hoài nói – Thôi, để từ từ tao điều tra thêm. Tao có đồng hương là
nhỏ Phượng học K.10, lo gì không xong. Giờ ngủ tí đã, còn có gần tiếng nữa là
học tiếp rồi.
Hoài nói
xong quay đầu vào tường im lặng. Nguyên xoay người, nhắm mắt lại. Gương mặt
xinh xắn, man mác vẻ buồn của Chi, với mái tóc dài tha thướt, với cặp mắt đen
lay láy – khi chợt rõ ràng như đang ở trước mắt, khi chập chờn hư ảo – xâm
chiếm tâm trí anh, tràn ngập cả hồn anh. Anh chìm vào giấc ngủ, môi còn thoáng
một nét cười.
_______
[1] Nhân vật Huy cận được xây dựng vì mục đích muốn nhấn mạnh sự dí dỏm, óc khôi hài của lớp sinh viên trẻ, hoàn toàn không có ý định bất kính nào đối với nhà thơ Huy Cận. Vì vậy,nếu trong truyện có chi tiết nào sơ thất, rất mong được nhà thơ Huy Cận và thân quyến rộng lòng tha thứ. ( TG)
[1] Nhân vật Huy cận được xây dựng vì mục đích muốn nhấn mạnh sự dí dỏm, óc khôi hài của lớp sinh viên trẻ, hoàn toàn không có ý định bất kính nào đối với nhà thơ Huy Cận. Vì vậy,nếu trong truyện có chi tiết nào sơ thất, rất mong được nhà thơ Huy Cận và thân quyến rộng lòng tha thứ. ( TG)
***
ghi chép 2
Quán
có tên là quán sinh viên. Thật sự thì nó chẳng có tên tuổi, bảng hiệu gì ráo
trọi, nhưng vì chủ quán rất ân cần niềm nở, thông cảm và thương mến bọn sinh
viên, nên quán được ưu ái đặt cho một cái tên thật là dễ thương như vậy. Tụi Nguyên cũng
thuộc vào hàng thân chủ ở đây. Cứ thoải mái
yêu cầu, rồi lại thoải mái ra về hết sức vô tư, miễn khi có tiền trợ cấp của
gia đình hay học bổng... ra thanh toán là xong.
Quán lại có
một cái tên khác nữa, dễ thương hơn rất nhiều, do chính tụi Nguyên đặt. Chị chủ
quán có một cô em gái rất xinh, tên là Ca Dao – cái tên nghe đã thấy lâng lâng
như được nằm lơ tơ mơ dưới bóng một lũy tre làng mát rượi ven sông,
văng vẳng bên tai tiếng sáo diều vi vu vi vút –
nên đôi khi tụi Nguyên còn gọi quán là quán Ca Dao. Ca Dao đang học lớp mười
hai, cô học giỏi, quyết chí phải thi đậu đại học năm nay, nên mấy anh có muốn tán tỉnh cũng hơi chờn trước vẻ vừa hồn
nhiên vô tư, vừa nghiêm nghị của cô. Ai nói gì, trêu gì cô cũng chỉ mỉm cười,
nếu cứ được đà xông tới thì cô ra sau nhà, lẫn mất tăm mất tích. Bọn con trai
vào quán đứa nào cũng khoái được nhìn thấy đôi bím tóc lắc la lắc lẻo và cái
lúm đồng tiền bên trái chiếc miệng nhỏ xinh, tươi tắn của cô, đành phải cắn
răng ghìm lại cái máu chinh phạt hung hăng, hiếu chiến của mình. Có “bức xúc”
lắm thì cũng chỉ dám trêu cô một câu, chứ không tay nào dám cất tiếng lần thứ
hai, tiểu cô nương sẽ trốn ngay lập tức.
Nét ngây
thơ ngộ nghĩnh của Ca Dao đã làm cho trái tim sắt đá, chai lì của biết bao
nhiêu tay sinh viên chọc trời khuấy nước phải mềm nhũn lại, đập loạn nhịp tưng
bừng, vậy nên Huy cận chết mê chết mệt cô cũng là chuyện bình thường. Nó là
người đóng đô thường xuyên, thường trực, trường kỳ ở quán Ca Dao. Thuở ấy chưa
có câu quảng cáo: “Ăn bóng đá, ngủ bóng đá, uống Coca Cola”, nếu không thì áp
dụng vào trường hợp của Huy cận thật là xác đáng: “Ăn căn tin ký túc, ngủ phòng
ký túc, uống Ca Dao, học Ca Dao, ngồi chơi Ca Dao!”
Huy cận ôm
mối tương tư mà không hề oán thán. Nó đã từng thức trắng một đêm, vắt trọn hơn
trăm gờ-ram chất xám, mấy chén cơm căn-tin, hai trái chuối la-sét của buổi
chiều để “tối tác” một bài trường thi ca tụng Ca Dao. Chưa có người thứ hai
biết về hình thức, nội dung hay nghệ thuật của bài trường thi đó! Huy cận là
một tác gia đúng nghĩa, một thi nhân chân chính. Nó đã thủ tiêu tác phẩm mang
nặng đẻ đau, đứa con tinh thần sơ sinh non yếu của mình ngay sáng hôm sau. Nó
chỉ giải thích ngắn gọn: “Chưa đạt! Chưa
xứng với một người như Ca Dao!” Sự khó tính và nghiêm túc với nghệ thuật, với
tình yêu của Huy cận làm tụi Nguyên phải phục lăn phục lóc.
Buổi trưa,
quán vắng chẳng có ai. Nguyên, Phượng, Hoài, Thảo vừa bước chân vào quán đã
phát hiện ra Huy cận đang ngồi đăm chiêu nghiên cứu một cuốn sách dày cộp. Thảo
cất tiếng:
-
Huy cận! Hôm nay Ca Dao cười với mày mấy cái!
Huy cận ngẩng đầu, nhìn bọn Nguyên ngơ ngác,
dường như nó không nghe rõ câu cợt đùa của Thảo, nó đã tập trung cao độ vào
cuốn sách đáng nể đó! Nó cười chào cả bọn, đưa tay đẩy cặp mắt kiếng lên, rồi nói:
- Chà, đi
đâu mà rầm rộ vậy, có cả chị Phượng nữa! Tới đây ngồi chung đi anh Nguyên, anh
Hoài.
Bọn Nguyên tới kéo ghế ngồi. Ca Dao xuất hiện,
cô bé đến bên Phượng hỏi:
-
Chị uống gì để em làm?
Đối với Nguyên, Hoài, Thảo, cô bé đã quen với
“gu” của từng người, chẳng có gì rắc rối: Nguyên, Hoài –
đen, Thảo – chè đậu.
Phượng
nhìn Ca Dao với vẻ mến mộ. Cô ít khi ra quán xá, và mới đặt chân vào quán Sinh
viên lần đầu, vậy mà thoạt thấy Ca Dao, cô đã thích ngay. Cô khen:
- Trông em
dễ thương ghê! Em cho chị một ly sữa tươi nha.
Huy cận len lén nhìn Ca Dao, đôi mắt si tình
của cu cậu vừa đắm đuối, lại vừa dè dặt. Nó sợ Ca Dao bắt gặp ánh mắt của mình
sẽ mắc cỡ trốn luôn. Quả nhiên, không biết vô tình hay hữu ý, Ca Dao liếc mắt
qua Huy cận. Cu cậu vội sụp ngay ánh mắt, lúng túng giơ tay lên, sờ sờ vào gọng
kính. Ca Dao mỉm cười, nói với nó:
- Anh Huy
có uống trà đá thêm không, em làm cho anh một ly, không tính tiền đâu.
Huy cận đỏ mặt sung sướng, gật đầu lia lịa. Nó
đưa mắt nhìn một lượt bọn Nguyên một cách hãnh diện, ý nói: Mấy anh chị thấy cô
ấy dễ thương chưa! Cô ấy quan tâm đến Huy rồi đó!
Ca Dao đi
vào trong.
Phượng
đưa mắt nhìn quanh quán rồi quay lại Hoài, cô nói:
- Quán này
hay ghê! Cô bé lại đáng yêu nữa. Mấy anh
hay ra đây lắm phải không?
- Cũng
thường, nhưng không bằng Huy. Huy nó là người tình nguyện gác quán 24 trên 24 ở
đây đó. Phượng muốn hỏi gì về cái quán này nó cũng trả lời được hết.
Phượng
cười, cô nhìn sang Huy. Nó luống cuống, ấp a ấp úng:
- Đâu có...
- Ạ... ạ,
chị biết rồi nghe Huy. Nếu chị là con trai hả, chị cũng sẽ tình nguyện như em
đó!
Cả bọn cười ồ lên, đua nhau nói xôn xao:
- Thấy chưa Huy cận, mày được thêm một cảm tình
viên ủng hộ rồi đó.
- Huy cận này, bắt đầu nổ súng đi! Mày ém quân
quá lâu rồi đó, coi chừng mai mốt lại hát bài “ Trèo lên cây bưởi hái hoa” nghe.
-
Huy ơi, “biết dùng lời rất khó,” phải hôn Huy...
Rồi
quán yên lắng lại. Cây sầu đông già ngoài hiên khẽ nghiêng theo cơn gió, mấy
chiếc lá vàng khô rời cành la đà rơi xuống. Chị Khuyên chủ quán bưng cái khay
tới bàn, cười cười. Ca Dao đã trốn mất không ra.
ooo0ooo
Hôm
qua, Phượng đã chôm được cuốn album hình của Quyên Chi trao cho Nguyên. Anh
chọn đi chọn lại mãi rồi cuối cùng rút ra một tấm trắng đen, chụp Chi hơi
nghiêng một góc ba phần tư. Tấm ảnh hình như đã được chụp khá lâu rồi, nên
trong ảnh khuôn mặt Chi tròn trĩnh, đầy đặn và có vẻ ngây thơ hồn nhiên hơn
hiện tại.
Nguyên móc túi quần, đếm đi đếm lại: còn có mấy
ngàn! Bữa trước, anh đã ra Lê Lợi hỏi
giá thử, một hộp màu dầu trung bình giá tám ngàn. Món tiền này chưa đủ mua hộp
màu, lấy đâu ra cọ kiếc, rồi vải nền nữa... Anh gãi đầu tính tới tính lui. Cuối
cùng, anh sực nhớ ra Kha. Anh hét
lên mừng rỡ: “Thằng Kha! Trời, sao tao
yêu mày quá, Kha ơi!”
Tiếng hét
làm cho bà cụ già vừa đi qua chỗ anh đứng được mấy bước giật mình hết hồn. Bà
quay lại, nhìn quanh quất, nhưng chỉ thấy có mỗi mình Nguyên đứng lơ lơ láo
láo, nét mặt hí hửng thì chột dạ. Bà len lén liếc anh rồi quay lưng bước thật
nhanh. Chắc bà nghĩ anh đã nổi cơn điên. Nguyên gập người cố nén, nhưng tiếng
cười cứ sùng sục thoát ra. Bà cụ càng rảo bước.
Nguyên quen
Kha qua Tân, bạn học của anh. Kha là sinh viên trường Mỹ thuật, nhưng học đến
năm thứ tư thì bỏ ngang. Tính anh ương bướng, trung thực, không thích quì lụy,
phục tùng ngoài mặt nên có nhiều đụng chạm với một số giảng viên của trường. Sự căng thẳng này thật ra không phải vì lý do cá
nhân, tuy cũng có nhưng không đáng kể, mà chủ yếu là do anh không chịu được sự
trì trệ, bảo thủ trong cách nhìn, trong
quan điểm nghệ thuật và sự coi thường
các tìm tòi của lớp trẻ ở các vị thầy
cô. Thời gian sau này, nhìn lại, Kha nói: “Thật sự khi đó mình còn trẻ quá, còn
hiếu thắng ngông cuồng quá, cứ ngỡ mình là thiên tài chưa tới thời, không gặp
vận. Đâm ra cứ lao vào suy tư, nghiền ngẫm tìm tòi, rồi phá phách, đạp đổ các
nguyên tắc, lề luật truyền thống, căn bản. Chưa học xong đã muốn là người sáng
tạo. Dĩ nhiên, không phải cứ năm năm mỹ thuật là ai cũng trở thành họa sĩ.
Nhưng năm năm đó là thời gian tích lũy những kỹ năng, những kiến thức tối cần,
là cái nền để trên đó người ta dựng nên những cái riêng. Ở trường có nhiều cái
chưa hay, nhưng mình bỏ ngang như vậy, cũng không đúng chút nào...”
Lần đầu
Nguyên gặp Kha là dạo anh xuất ngũ trở về được mấy tháng. Thời gian đó Nguyên
long đong, trôi nổi lắm. Thỉnh thoảng, anh theo một người quen trong xóm đi làm
phụ hồ, lâu thì một tuần, nửa tháng, mau
thì đôi ba ngày. Rồi lại trở thành người thất nghiệp.Thật ra, anh cũng có vài
cơ hội để có một chỗ làm ổn định. Nhưng cái cung cách cửa quyền, ma cũ ma mới,
trên đội dưới đạp của những con người ở đó làm anh buồn nôn, nổi nóng, nên vào
làm được đôi tuần anh lại bỏ đi. Cái máu nóng con nhà lính ngày đó vẫn còn nóng
hổi trong anh. Ở đơn vị, anh từng công khai mắng vào mặt tay chỉ huy tiểu đoàn
hay hành hung anh em cấp dưới, anh từng xách súng đuổi tay y sĩ tiểu đoàn vì cứ mải mê chơi tiến lên mà không xuống tiêm
thuốc, săn sóc cho bệnh binh đang nằm mê man, rét cóng trong cơn sốt. Anh bỏ
cái vị trí quân lực tiểu đoàn an nhàn, thoải mái xin xuống trung đội để cùng
chia sẻ, sống chết với anh em, lánh xa sự
ăn trên ngồi trốc, bóc lột, lường gạt những người lính bộ binh gốc nông
dân ít học của một số người không tốt trong khối tiểu đoàn bộ. Nhưng dù sao,
trong quân ngũ, số xấu xa chỉ là những con sâu làm rầu nồi canh. Và khi chấp nhận
bị đạp xuống chỗ cuối cùng là trung đội bộ binh, thì anh lại thấy sung sướng và
ấm áp có lại nếp sống vô tư, có lại những tình cảm thiêng liêng, cao quí. Người
lính, nhất là lính chiến, chỉ biết nhiệm vụ, không lo đến cơm ăn áo mặc, không
lo nghĩ nhiều đến việc xa xôi, thật ra lại sống rất khỏe khoắn hồn nhiên. Nên
cuối cùng ngẫm lại, đời lính lại là đơn giản và mang về nhiều hạnh phúc. Cuộc
đời ở bên ngoài, trong xã hội lớn, giữa mọi giai tầng, giữa mọi sang hèn, giàu
nghèo, trung thực và xảo trá, bịp bợm khoe khoang và ngu khờ dễ tin dễ bị lọc
lừa, với biết bao nhiêu khát khao, tham vọng –
cao quí hay hèn hạ – mới chính là
một chiến trường nguy hiểm, gay go hơn hết, mà người lính thì lại lẻ loi... Thời gian đó, Nguyên đang trong
quá trình hòa nhập lại cuộc sống bên ngoài, anh còn chưa bỏ được cái cung cách
suy nghĩ, hành động như lính ở chiến trường thì làm sao mà không khốn đốn...
Nguyên khổ
sở vì thất nghiệp, thường xuyên không xu dính túi. Lâu lâu, Tân – thằng bạn
thân của anh từ hồi còn học cấp 1 mãi
cho đến hết phổ thông – lại kéo anh ra
quán uống cà-phê nói chuyện trên trời dưới đất. Tân nhà khá giả, có mấy anh chị
ở Mỹ thỉnh thoảng gửi tiền hàng về, nên sống rất thoải mái. Tính Tân có chút
lãng mạn nghệ sĩ, phóng khoáng nên bè bạn rất nhiều. Có điều, khi ấy Tân biết
Nguyên mặc cảm, tự ái, nên cũng thỉnh thoảng mới tới rủ anh đi đây đi đó. Hai
đứa anh thân thì rất thân, thương nhau và hiểu nhau vô cùng, nhưng lại cũng hay
gây gổ, cãi nhau vì những chuyện trời ơi đất hỡi. Có những trận cãi nhau căng
đến nỗi Nguyên đùng đùng bỏ về ngang, cuốc bộ hàng mấy cây số để về nhà nếu không
may cả hai đi đến một nơi hơi xa như vậy. Đại khái những vấn đề dễ gây xung đột
là những vấn đề rất xa rời thực tế,
những vấn đề triết học, văn chương nghệ thuật... Dạo đó, Nguyên đọc nhiều. Sách
do Tân cho mượn, sách ở thư viện quận, rồi sách do chính anh lùng mua ở các
hiệu sách cũ mỗi khi trong túi rủng rỉnh chút tiền còm. Có khi anh đến thư viện
ngồi đọc cả ngày trời, trong túi không còn một điếu thuốc để hút cho đỡ thèm...
Đọc tán loạn lên, tâm sự đầy ắp, suy tư âu lo đầy ắp, không nơi trút bỏ, nên gặp
Tân là anh nói, nói miên man. Mà Tân lại có cái tật luôn luôn nói càn, gạt ngang
ý kiến người đối thoại, dù biết là đúng, anh cũng cố vận dụng lý lẽ, biện bác
để uốn cong bóp méo vấn đề. Cả hai cứ gặp nhau, mừng rỡ chuyện trò, rồi lại
đùng đùng gây sự với nhau như vậy mãi…
Hôm đó, cả
hai cũng đang hùng hổ cãi cọ, thì Kha bước vào quán. Anh trông thấy Tân, bước
tới, kéo ghế ngồi thật tự nhiên, rồi cũng thật tự nhiên xen vào cuộc đấu khẩu.
Cả ba cãi nhau tưng bừng khói lửa hồi
lâu, rồi Kha cười cười nói: “Thôi! Tớ rút quân. Coi như chúng ta hòa, ý kiến,
quan niệm của ai người ấy giữ là thượng sách!”
Kha có cái
hay như vậy, anh không khư khư cho là
mình đúng và bài bác ý riêng người khác. Từ hôm đó, Kha và Nguyên đã thầm mến
phục nhau, và không bao lâu,cả hai đã trở nên bạn thân của nhau...
Kha đang
lui cui căng tấm toile thì Nguyên tới. Anh ngước lên mừng rỡ:
-
Lâu quá không thấy cậu tới chơi. Dạo này sao rồi?
- Khỏe
mạnh, yêu đời. Mình bận quá, dạo này toàn học hai buổi, tối lại lên cơ quan nên
chẳng làm sao tới cậu được. Kha, mình
cần một số cọ vẽ màu dầu, và khoảng năm ngàn, có không?
-
Cọ thì thiếu gì, tiền cũng có, mình vừa thu được tiền bán mấy tấm tranh gửi ở
gallery. Nhưng cậu định vẽ cái gì vậy? Tớ nhớ có lần cậu nói chưa bao giờ vẽ
màu dầu mà?
- Chuyện
tình yêu, hay lắm, Kha ạ. Nhưng bây giờ mình bận, chưa kể được. Tóm tắt là mình
muốn vẽ chân dung một cô gái, để tặng làm quen.
Kha
đứng lên. Anh cao gầy, cái quần jean bụi bụi, áo sơ mi rộng thùng thình bỏ vào
quần, cả quần cả áo lấm tấm những vệt sơn, trông đúng là một mẫu nghệ sĩ phong
trần lãng tử. Anh lắc đầu:
- Đâu có
được. Bận mấy cũng vậy, cậu đã tới đây thì đâu dễ đi ngay. Chờ mình chút xíu.
Để coi, vẽ chân dung thì dùng loại cọ mềm, số nhỏ – Anh lựa lựa trong cái túi rồi đưa cho Nguyên một
mớ cọ to nhỏ đủ cỡ.
Nguyên
hỏi:
-
Vẽ trên nền giấy có được không Kha?
- Được,
nhưng sao cậu không vẽ lên vải?
-
Mất thì giờ và phiền phức quá, mình thì lại nôn nóng muốn làm ngay kẻo hết
hứng. Cậu biết đó, thật sự mình có biết chút bài bản gì đâu, chỉ vẽ tùy hứng.
Không có hứng là không làm gì được.
Kha chợt vỗ trán kêu lên:
- À, cậu
vào xem cái này nhé – Anh nắm tay kéo
Nguyên vào phía trong gian phòng. Trên giá, dưới đất dọc theo tường ngổn ngang
những bức tranh đủ cỡ. Kha bảo:
-
Mình sắp triển lãm tranh cùng hai tay khác. Coi thử có được không?
Nguyên đứng
nhìn từng tấm tranh một, đứng gần, rồi lại lùi ra. Anh nhận ra có cái gì đó hơi
khang khác, anh kêu lên:
-
Đây là phong cách của Picasso! Sao cậu lại vẽ như vậy?
Kha nói:
-
Cậu chưa xem kỹ đó, thoạt trông thì như vậy, nhưng khác xa, những kỹ thuật thể
hiện hoàn toàn là cái riêng của Kha.
Nguyên lắc đầu:
-
Không, mình không bàn về kỹ thuật, mình muốn nói cái chung, cái tổng quát.
Những bức tranh kiểu này đi đâu cũng thấy, có quá nhiều người mô phỏng rồi. Sao
cậu lại còn đâm đầu vào nhỉ? Sao cậu không tiếp tục cái phong cách thô mộc,
khỏe khoắn mà rất sâu sắc gợi cảm của mình. Tớ nghĩ cậu lạc lối mất rồi Kha ơi. Nhìn tranh này,
những người biết cậu, có ai nhận ra đây là tranh của cậu hay không? Một sự lắp
ghép quá nhiều mà hầu như không nói lên được điều gì cả!
Kha
hơi cáu, anh cố dằn cơn bực tức:
- Cũng chỉ
là thể nghiệm thôi Nguyên, mình muốn đi tìm cái hay của phong cách này. Tìm
tòi, học hỏi các bậc thầy thì có gì là không tốt. Với lại, tranh kiểu này có
nhiều người ưa thích hơn. Đa số những người đủ tiền mua tranh, có mấy ai hiểu
sâu về nghệ thuật. Nếu chỉ vẽ theo cái riêng, khó sống mà sáng tác lắm Nguyên
ơi. Dĩ nhiên, mình cũng có những tấm khác, đơn thuần vì nghệ thuật, nhưng mình
để ở nhà. Cậu đúng là... lâu ngày gặp lại đã cho mình ăn mướp đắng! Thôi, đi
uống cà-phê, miễn bàn chuyện nghệ thuật. Ngày hôm nay là ngày dành riêng cho
các chuyện tình...
Nguyên gật đầu cười xòa:
-
Ờ, mình xin lỗi, đã chẳng khen công sức cậu đổ ra thì thôi, lại còn bày đặt phê
phán. Mà mình là cái quái gì nhỉ, có biết tới đâu đâu. Chẳng qua là cái tật cứ nghĩ sao nói vậy, biết mà không bỏ được. Thôi
đừng giận nhé!
Cả hai cười sảng khoái. Kha dắt chiếc Cup ra,
khoá cửa xong anh nói:
-
Nguyên này, mình đi uống rượu nghe. Có một chỗ làm thịt cầy ngon lắm.
***
ghi
chép 3
Trường trước kia nguyên là một khu lưu xá thuộc nhà thờ Fatima, Bình Triệu. Tổng cộng chỉ có ba hội trường A, B,
C dành cho việc lên lớp giảng dạy và học tập, còn lại là các phòng có diện tích
không đáng kể dùng làm chỗ ở cho các giáo viên và sinh viên nội trú. Sau này,
lúc tụi Nguyên đã sắp ra trường, trường được xây dựng thêm một dãy lầu, mở rộng
được hơn một tí diện tích, nhưng cũng chẳng thấm vào đâu, vì con số sinh viên những
khóa sau tăng lên rất nhiều, gấp ba gấp bốn giai đoạn trước. Vì diện tích nhỏ
xíu, nơi ở xen lẫn nơi dạy như vậy, nên đã xảy ra nhiều chuyện rất buồn cười...
Đôi khi, bọn sinh viên lười lĩnh như Thảo, Hoài giặt đồ chưa khô
kịp, cứ nằm ễnh trên giường, nướng qua nướng lại mà cũng nghe được tiếng giảng bài
từ Hội trường A... Đôi khi, đang giữa
tiết học, một đứa nào đó chợt nghe kiến bò nhộn nhịp trong bụng. Nó liền từ từ dịch
chuyển vị trí về phía cửa, canh lúc thầy cô quay sang chỗ khác để chuồn ra, về
phòng lục niêu cơm nguội ra vét sạch, rồi lại mon men xuống, lẩn vào, ngồi học
tiếp, trông có vẻ ta đây vô cùng đàng hoàng nghiêm túc...
Lại đôi khi, cả lớp đang yên ắng, lơ mơ thả hồn theo “lời ru buồn
nghe mênh mang mênh mang” của thầy Phan, bỗng từ bên trên đầu có tiếng dạo đàn guitar
phím lõm lưng tưng. Rồi một giọng tenor vừa chói lói, vừa ồm ồm cất lên một câu
vọng cổ; khi giọng ca bất hủ xuống xề, bất giác mọi người đưa hai bàn tay lên,
định vỗ một tràng hoan hô lốp đốp, nhưng
vội hết hồn rụt ngay lại, giấu xuống hộc bàn, vì sực nhớ mình đang ngồi trong
lớp...
Rồi có đôi khi khác, cô giáo đang nghiêm trang truyền đạt cho học
trò những tri thức cao siêu, chợt một con bé khoảng năm sáu tuổi, ì ạch bế một con
bé khác khoảng tám chín tháng tuổi gì đó hiên ngang đi vào giảng đường, mếu ma
mếu máo: “Mẹ ơi! Em bé ị ra rồi! Mẹ về thay tã cho em!”...
Chưa kể đến những tai nạn bất ngờ do bọn con trai hoặc con gái
tính tình cẩu thả gây nên, mà người lãnh đủ lại là các bậc thầy cô khả kính:
Một vài thầy cô được phân phối phòng ở tầng trệt, nên bắt buộc phải thường
xuyên đi lại qua vùng “góc chết”- một khoảng đường hẹp không tới hai mét chiều
ngang nằm trong phạm vi mấy mét tính từ góc vuông giao tiếp giữa hai dãy nhà.
Bọn con nhà vô lương tâm này cứ thoải mái đứng từ tầng một hoặc tầng hai đổ ào
xuống dưới, khi thì nước vo gạo, khi thì nước rửa chén, rửa niêu... đôi khi,
không biết chừng, còn nguy hiểm hơn, là nước xả đồ “ấn-đơ-que” (!) bất kể bên
dưới là mái đầu xanh rì của lứa tuổi hai mươi, hay là mái đầu lấm chấm muối
tiêu của các vị thầy cô già cả!
Trường
cách không xa con sông Saigon, ở khúc nó uốn
éo chảy qua chiếc cầu Bình Lợi. Nên chi biết bao cuộc tình của bao thế hệ sinh
viên đã hoặc đang bắt đầu, kéo dài và chấm dứt đều không khỏi có chút gì đó,
không ít thì nhiều gắn liền với dòng sông, với chiếc cầu đầy “tai tiếng.”
Cầu Bình Lợi dĩ nhiên khác xa với cầu trên sông Drina,
nhưng về mặt các truyền thuyết liên quan đến các vụ tự tử thì
xem ra nó cũng không thua sút lắm. Rất tiếc Việt Nam ta chưa thấy xuất hiện một văn
tài tương tự như Ivo Andritch để viết một cuốn tiểu thuyết tầm cỡ về chiếc cầu
Bình Lợi! Nói nghe kinh khủng vậy, nhưng đối với sinh viên trường, chiếc cầu là
nơi có nhiều kỷ niệm. Những buổi chiều mùa hạ, khi trời nóng hừng hực, oi bức
không chịu nổi, các cô các cậu lững thững đi ra bờ sông, ở phía sau trường,
hoặc đi xa hơn,lên trên chiếc cầu, để hưởng chút gió sông dịu mát. Biết bao
nhiêu lời tán tỉnh ngọt ngào, lời trả đũa chua cay, lời giận hờn trách móc nỉ
non, lời tỏ tình run run thỏ thẻ, lời thề thốt nghe chắc ăn như đinh đóng gỗ
lim... đã được gió sông hứng vào lòng của nó, và dĩ nhiên, cũng đã theo gió cuốn
đi.
Tuy
nhiên, đối với Nguyên, cầu Bình Lợi chỉ là một chướng ngại vật không hơn không
kém. Dạo ấy, đi xe qua cầu thật là khổ sở, vì lối dành cho xe cộ chỉ vừa đủ để
hai xe gắn máy lách nhau một cách rất ư chật vật. Chiếc cầu làm anh bị trễ giờ
liên tục. Anh ghét nó. Anh chỉ yêu cái bến sông con thơ mộng của mình.
Bến nằm ở phía sau lưng trường. Muốn đi vào nó phải đi qua Trung
tâm cai nghiện Bình Triệu, qua một chiếc cầu xi-măng nho nhỏ bắc qua một con lạch
con con, qua một nghĩa trang công giáo nên thơ
đầy những cây hoa sứ trắng tỏa
hương thơm ngát. Gọi là bến sông cho oai, thật ra, đó chỉ là một lối nhỏ dẫn
tới bờ sông, nằm giữa hai bên là hai hàng cây thùy dương xanh ngắt, trồng làm
hàng rào cho các căn nhà vườn ở đó. Ngay sát bờ sông có một đám cỏ dày; bên
dưới bờ đất cao, khoảng ba bốn mét tính từ bờ lại có một lớp đất sỏi cứng, rất
tiện khi tắm xong lên bờ, chân không bị lấm bùn bê bết. Nguyên yêu cái bến sông
ngay từ khi anh mới biết nó lần đầu, nhưng sau này anh còn yêu nó nhiều hơn
nữa. Đã có những buổi chiều anh ngồi ở đây, hồi hộp chờ mong trông thấy Quyên
Chi. Đã có nhiều buổi chiều sau khi vùng vẫy, lăn lộn mệt nhoài trong làn nước,
anh lên bờ ngồi một mình nhìn hoàng hôn buông xuống, nhìn mặt trời vàng rực từ từ
khuất sau những rặng cây bên bờ đối diện, nhìn những giề lục bình bông tím trôi
lừ đừ mà không biết về đâu.
Dạo
đó tháng Năm. Trời nóng hanh hao. Một hôm Hoài khều khều Nguyên:
- Chiều nay đi ra bờ sông không?
-
Làm chi vậy, mày muốn tắm sông à, lạ nhỉ? – Nguyên ngạc nhiên, anh biết Hoài
không thích tắm sông lắm.
Hoài
lắc đầu:
- Để cho mày gặp Chi.
Nguyên
càng ngạc nhiên hơn:
- Gặp Chi? Cô nàng cũng ra đó hay sao?
- Mày không biết gì hết. Mấy bữa nay nước yếu, không đủ nước tắm,
mà trời lại nóng nực nữa. Tụi nó kéo ra sông tắm cho đã rồi mới về tắm sơ lại. Hôm
qua tao cũng ra sông tắm, gặp Chi. Chi mặc cái áo ngắn tay tím, cái quần soóc.
Trông cặp đùi thon thon trắng muốt của cô ta thật là dễ thành tội phạm quá
chừng! Không chừng mày mà gặp Chi ở đó hôm qua thì đã làm được mấy bài thơ rồi!
-
Ồ, vậy sao – Nguyên lẩm bẩm, rồi lại hỏi Hoài – Chi bơi giỏi không?
-
Cũng tàm tạm, cỡ tao thôi.
- Ừ được rồi, chiều nay tao sẽ ra đó.
Buồn
thay, chiều hôm đó Chi không ra sông tắm, và cả những chiều tiếp theo cũng vậy.
Nhưng kể từ đó cái bến sông con đã trở thành một cái gì đó rất thân quen, gần
gũi với Nguyên. Nó trở thành một người bạn của anh. Anh nghĩ: Mày đã từng quyện
vào lòng mình thân hình trong trắng của Chi. Mày là nơi cô đã để lại những dấu
chân trần mềm mại – trên đám cỏ xanh này, trên lớp sỏi cát này. Trong những vòm
lá xanh kia, tiếng cười trong vắt hồn nhiên của Chi đã bay lên, tản mát quyện
vào cùng gió nắng... Nghĩa là, mày đã trở thành kỷ niệm... Gặp lại mày, tao gặp
lại những hình ảnh với tao vô cùng thân thiết...
. . . Ta ngồi trên gió nghìn năm
Nghe dòng sông thở xa xăm thoảng buồn
Sóng ve vuốt bóng cành dương
Thì thào hát khúc hoang đường mộng xưa
Em đi trên phím lòng ta
Sầu âm đồng vọng xác xơ nỗi niềm
Chiều gieo tịch mịch bên sông
Ta nghe... chiếc lá rơi thầm xuống vai.
Ta nghe ... một tiếng thở dài.
Dòng sông vọng mãi âm hoài niệm xưa.
Nhạt nhòa trong mắt mờ xa
Khói mây ẩn hiện dáng hoa em về
Ta thành tượng đá u mê.
Thời gian từng giọt chảy về mù khơi. ...
Bến
sông con đã bị người ta đối xử một cách tàn ác, bất công. Nó trở thành một chỗ
đổ rác công cộng. Lần trở về thăm lại nó sau này, anh đứng ngơ ngác nhìn người
bạn của mình bị chôn vùi dưới những lớp rác rưởi mà muốn rơi nước mắt. Tất
nhiên là anh không khóc được. Nhưng cổ họng anh đắng nghét, nghẹn ngào. Ôi!
Những dòng sông tuổi thơ, những dòng sông tình yêu, những dòng sông một thời
luyến nhớ...! Tất cả đã trôi qua, đi mãi, biền biệt không về...
***
ghi chép 4
Trời
vừa đổ một cơn mưa nhỏ, cây cỏ trút bỏ được lớp bụi khói dơ bẩn trong hơn một
tuần nắng hạn, có lại vẻ xanh tươi mát dịu. Chiều nay quán Ca Dao đầy nghẹt
khách. Chẳng là vì hôm nay là ngày phát học bổng. Hoài lăng xăng đi lùng thêm ghế. Hắn không chút e
dè lủi vào tuốt phía sau, cất tiếng oang oang hỏi chị Khuyên:
- Còn cái ghế long chân, thương tích nhẹ cỡ 4/4 nào không chị
Khuyên?
Không chờ chị trả lời,
hắn vớ luôn hai cái ghế đẩu ra, cười hể hả:
-
Nè Nguyên, tụi mình cay đắng đã từng, ngồi ghế này cũng chả giảm một tí ti sĩ
diện nào. Còn mấy cái kia nhường cho các người đẹp và em út.
Mọi
người ngồi xuống ghế. Quyên Chi cứ phải
liên tục gật đầu mỉm cười đáp lễ bọn người quen biết. Có rất nhiều người biết
cô và cảm mến cô. Thì ra, được nhiều người biết và cảm mến cũng khá là cực khổ!
Đây là lần đầu tiên Nguyên mời được cô ra quán. Anh cứ như mở cờ
trong bụng, sung sướng đến nỗi cứ muốn la hét thật to, muốn nhảy cẫng lên để giảm
bớt lòng hưng phấn. Anh nhìn Chi, thấy cô hôm nay đặc biệt dễ thương. Cô mặc
chiếc áo pull cổ cao, dài tay màu đỏ boóc-đô. Chiếc áo làm làn da trắng hồng
khỏe mạnh đặc trưng con gái miền Tây của Chi càng nổi bật. Thường thì anh không
thích màu đỏ sẫm, nhưng hôm nay, màu đỏ được lưu vào bộ nhớ trong của Nguyên như
là một màu sắc thuộc hàng thượng khách. Từ nay anh sẽ yêu thích nó!
Chi
đưa tay lên vén nhẹ mớ tóc lòa xòa, cô hỏi Thảo:
- Chị nghe Phượng nói ở
đây có một cô bé tên là Ca Dao rất dễ thương, sao nãy giờ không thấy hả em?
Thảo
nhìn Phượng cười hinh hích:
- Trời, con nhỏ này có ma lực gì mà đến quí cô, quí chị nó cũng
thu hút ghê quá. Chị Phượng ra mới có
một lần mà đã không quên được nó. Huống gì Huy cận cứ ở đây quanh năm suốt
tháng. Chắc trong đầu nó chỉ còn có hình ảnh cái lúm đồng tiền của Ca Dao! Chị
Chi ơi, chị hỏi Huy đó, em đâu dám dòm ngó nhỏ Ca Dao, Huy cận nó thanh toán em
ngay.
Huy cận đưa tay đẩy gọng kính, trả lời câu hỏi
của Chi:
- Hôm nay Ca Dao đi học thêm. Cô ấy học Anh Văn ngày Ba, Năm,
Bảy, từ năm giờ rưỡi đến bảy giờ rưỡi ;
Còn Hai, Tư, Sáu học Toán, Hóa, từ bảy
giờ đến chín giờ...
-
Thôi đủ rồi – Hoài cắt ngang bản tường trình chi tiết của Huy cận một cách phũ
phàng – Có ai kêu mày khai báo lê thê như vậy đâu Huy. Mày càng lúc càng tệ đó!
Phải biết bảo tồn năng lượng, bảo lưu sức khỏe, chỉ nói những gì cần thiết, chỉ
làm những gì cần thiết...
- Ha Ha...Hi hi..Hê hê...
Cả bọn cười rộ lên làm Hoài cụt hứng. Hắn nhướng mày:
- Ủa, sao vậy, quí bạn cười cái gì vậy?
Chi
vừa cười nho nhỏ, vừa nói:
- Anh nói nghe hay ghê, sao không nhìn lại mình xem. Chi thấy
anh là người ít có tinh thần bảo lưu, bảo tồn hơn Huy nhiều đó...
Thảo chợt vỗ trán, kêu lên:
- A, chị Chi, hôm trước anh Nguyên có tặng cho chị mấy bài thơ
phải hôn? Chị đọc thấy ra sao, có thấy cảm động tí ti ông cụ nào không chị? Anh
Nguyên cứ than thở với em là ảnh hồi hộp ghê quá, sợ chị chê thơ con cóc mà
cũng bài đặt tặng.
Chi
bẽn lẽn nhìn Nguyên:
- Hôm đó, anh nhờ Thuyên chuyển cho Chi, nên chưa kịp cám ơn,
giờ sẵn dịp, anh cho Chi cảm ơn nghe. Thơ hay lắm, Chi thích lắm!
Thảo
bĩu môi:
- Thơ của anh Nguyên mà ăn thua gì! Chị Chi chị Phượng có biết
ai là đệ nhất thi sĩ ở trường mình không?
Chi,
Phượng cùng lắc đầu. Phượng cất tiếng:
-
Em nói đi, ai vậy?
Thảo làm ra vẻ trịnh
trọng:
- Xin giới thiệu với mấy chị, người đó không xa ai xa lạ, là Huy
cận nhà ta! Chị Chi, chị Phượng chưa đọc Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh sao? Mà không
cần đọc cũng biết! Cái tên “Huy Cận” đã
lừng lẫy từ mấy chục năm về trước chứ bộ!
Cả
bọn lại được một phen cười nôn cả ruột. Phượng cười đến nỗi mặt mày đỏ bừng, cô
nói:
-
Thôi xin mấy ông thương cho, đừng có diễu nữa, không tôi chết vì cười mất!
- Chị Phượng không muốn cười, tức là muốn khóc! Được rồi, mời
chị nghe bài thơ này của em - Đệ nhị thi sĩ sau con nhà Huy cận, bảo đảm chị sẽ
mếu máo ngay. Xin kính trình quí vị một bài thơ con cóc có tựa đề là Con gái,
trước khi đọc xin chân thành cáo lỗi cùng nhà thơ Đỗ Trung Quân. Sau đây, xin
được bắt đầu – Thảo hắng giọng, ngâm nga:
Con gái là gì hở bố
Sao làm con phải ngó theo?
Con gái là gì hở bố
Sao xa con lại nhớ nhiều?
Con gái là vì sao biếc
Cho con trẹo cổ ngó hoài!
Con gái là đường lên dốc
Con trèo mệt bở hơi tai!
Con gái là viên kẹo ngọt
Ngậm vào nhức buốt chân răng!
Con gái là chùm me dốt
Khi chua khi ngọt bất thường!
Con gái mỗi người chỉ một
Như là bố-một vợ thôi!
Con gái nếu ai chưa sợ
Sẽ chưa lớn nổi thành người!
Thảo
vừa dứt tiếng. Hoài đã vội vàng thanh minh trong tràng cười râm ran, khúc khích:
- Xin mấy cô miễn chấp! Thằng Thảo này nó điên điên khùng khùng
nên mới dám mỉa mai cánh đàn bà con gái.
Nó đâu có biết cái câu “Không có phụ nữ thì cũng không có anh hùng!” – Hoài
quay sang Nguyên cười bí ẩn, rồi nói tiếp – Chi đã đọc thơ của Nguyên rồi,
nhưng Chi đâu có ngờ hắn còn viết văn xuôi rất chi là thảm thiết, phải không?
Thì
ra là Hoài muốn lăng-xê Nguyên với Chi. Hôm trước, Nguyên có viết một đoạn đoản
văn. Lúc anh lấy ra đọc lại thì Hoài trông thấy, hắn lấy xem xong cất đi, giờ
nhắc Nguyên mới nhớ ra. Hắn rút trong túi ra tờ giấy ca-rô trao cho Chi:
-
Chi đọc đi!
Nguyên đỏ mặt nhìn cô. Cô
cũng nhìn Nguyên trong khoảnh khắc, rồi mỉm cười mở tờ giấy ra, thầm đọc…
Chi
đã đọc xong. Cô cúi đầu im lặng hồi lâu, bùi ngùi xúc động. Rồi cô ngẩng lên,
nhìn Nguyên:
-
Anh viết hay, hay lắm, nhưng buồn quá!... Anh viết rồi có gửi cho báo nào không?
- Chỉ viết chơi thôi, Chi ạ. Viết kiểu này khó được đăng lắm.
Chi
chợt nhớ ra điều gì đó, cô hỏi:
- Thế cô bé mà anh nhắc trong truyện này, bây giờ ra sao?
Nguyên
lắc đầu:
- Tôi cũng không biết nữa. Tôi không gặp lại cô ấy cũng đến bảy
tám năm rồi.
Chi
ngần ngừ giây lát, rồi hỏi tiếp:
- Thế sau đó, anh còn yêu ai khác nữa không?
-
Có, vài người nữa, nhưng cũng chỉ lan man thôi, chẳng tới đâu hết.
- Chi đã có người yêu rồi, anh biết hay không? – Cô chợt nói một cách bất ngờ.
Nguyên
đáp:
- Có biết, Phượng có nói cho tôi nghe. Anh ấy chắc là hay lắm,
phải không Chi?
Chi
lắc đầu:
- Cũng bình thường thôi, nhưng Chi rất yêu anh ấy. Chi cũng
không biết vì sao nữa.
Cả bọn nãy giờ im lặng, như nhường cho hai người đối thoại, giờ
bắt đầu rục rịch. Hoài cất tiếng:
-
Chi có người yêu thì có, ăn nhằm gì. Nhất cự ly, nhì tốc độ. Bồ của Chi giờ ở
xa lắc xa lơ rồi, muốn gặp nhau cũng khó. Chả lẽ Chi không muốn quen với người khác cho đỡ buồn
sao?
Chi gật đầu:
-
Đúng là buồn thật, nhiều khi những chiều Thứ Bảy nhìn tụi bạn có bồ hẹn hò, chờ
đợi dẫn nhau đi chơi, Chi cũng thấy thèm được như vậy lắm. Nhưng đã yêu anh ấy
rồi, biết làm sao...
Nguyên mỉm cười, nhìn Chi. Anh thầm cảm phục sự thẳng thắn,
trung thực của cô. Anh bùi ngùi thầm nghĩ – Có lẽ mình chỉ có thể xem cô là
bạn. Mình không thể làm gì hơn được trước một tình yêu chân thành như vậy.
Trời
lại âm u chuyển mưa. Chi nói:
- Thôi, mình về nghe mấy bạn. Chi phải sang bà chị chiều nay,
nên cần đi ngay kẻo mưa rồi.
Họ rời quán. Chi nhìn những vũng nước còn đọng
sau cơn mưa lúc nãy. Cô khẽ thì thầm: Hình như, trời mưa hay làm cho người ta
buồn nhớ lắm, phải không...Vâng, mưa hay làm cho người ta buồn nhớ lắm...
(còn tiếp)
Bạn đọc thân mến,
Trả lờiXóaQua những data của website server, tôi nhận thấy đây là entry mà nhiều bạn thường đọc nhất. Tôi không hiểu vì sao. Nhưng... nếu bạn có bất kỳ ý kiến nào, khen, chê, chia sẻ... xin bạn đừng ngần ngại ghi lại cho tôi. Chân thành cám ơn bạn.